Bài thơ người con gái Nam Xương

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương[1], tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung[2] tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh[3], xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương Sinh có tính đa nghi, đới với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà[4]. Cuộc xum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú[5] nhưng không có học, nên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng:
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách[6] phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được. Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:

- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm[7] trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì[8], khiến cho tiện thiếp[9] băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rũ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Nước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình, muôn dặm quan san[10]!

Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đầy tuần[11] thì sinh ra một đưa con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lược đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn gốc bể chân trời không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối[12] lại với nàng rằng:


- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, làm tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền[13], số cùng khí kiệt[14]. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình. Qua năm sau, giặc ngoan cố chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành: - Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đứa con ngây thơ nói: - Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư! Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít. Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói: - Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả. Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được. Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:

- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum hợp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết[15]. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa[16] chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu không kể lời con nói; chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất[17]. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa[18].

Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ Nương[19], xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ[20]. Nhược bằng lòng chim dạ cá[21], lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận[22] cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:

- Cha Đản lại đến kia kìa! Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách: - Đây này!

Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!


Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang, khi trước làm đầu mục[23] ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan Lang thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, bèn đem thả con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại[24] nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trầm Thiêm Bình[25] về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở hải đảo, có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng: - Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa.

Linh Phi bèn lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đền dao[26] thật nguy nga lộng lẫy, mà chưa biết mình đã lọt vào cung nước của rùa thần. Linh Phi bấy giờ mình mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười bảo Phan Lang rằng:

- Tôi là Linh Phi trong động rùa, vợ vua biển Nam Hải, nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời xui khiến cho tôi có dịp đền ơn trả nghĩa? Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang rằng: - Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư? Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói: - Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng tiên trong cung nước thương tôi cô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá, còn đâu mà gặp ông. Phan nói:

- Nương Tử[27] nghĩa khác Tào Nga[28], hờn không Tinh Vệ[29] mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt[30], há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?

Vũ Nương nói: - Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa! Phan nói:
- Nhà cửa tiên nhân[31] của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai rợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao? Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

- Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam[32]. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn[33] đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về. Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói: - Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi. Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện. Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào: - Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.

Viết về số phận người phụ nữ Việt Nam, Hồ Xuân Hương có câu “thân em vừa trắng lại vừa tròn/ bảy nổi ba chìm với nước non”. Cuộc đời bất hạnh của những người phụ nữ Việt Nam luôn là nguồn đề tài bất tận của các nhà thơ, văn và Nguyễn Dữ – 1 nhà văn với trái tim giàu lòng nhân hâu đã viết nên “CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG” để làm nổi bật lên vẻ đẹp của Vũ Nương…

Bài thơ người con gái Nam Xương

Mở đầu tác phẩm, người đọc không khỏi thán phúc trước nghệ thuật dựng truyện và miêu tả tâm lý nhân vật của tác giả, từ đó như dẫn dắt ta vào câu chuyện với những tình huống đầy bất ngờ và lôi cuốn để làm toát lên vẻ đẹp của Vũ Nương, như từ đầu đã giới thiệu, đó là một người con gái “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” với những đức tính ấy, đáng ra, Vũ Nương phải được sống một cuộc sống hạnh phúc, ấm êm… Nhưng không, Trương Sinh đã bỏ ra 100 lạng vàng để cưới nàng về làm vợ, đó cũng là dấu hiệu của một cuộc hôn nhân không bình đẳng… Tuy sống với 1 người chồng ít học, hay ghen, đa nghi lại phòng ngừa quá mức, nhưng với phẩm chất giàu đức hy sinh, Vũ Nương luôn cố giữ gìn khuôn phép, chưa bao giờ để gia đình xảy ra mối bất hòa, thế nhưng… cuộc sống gia đình hạnh phúc chưa được bao lâu thì Trương Sinh do ít học phải đi lính đợt đầu? Ngày tiễn đưa chồng, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy… “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hào, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ mong ngày trở về mang theo được 2 chữ bình yêu” với những lời nói ân cần dịu dàng, như càng giúp ta hiểu hơn về Vũ Nương – 1 người vợ đầy tình nghĩa, không màng danh lợi vinh hiển, chỉ mong chồng được trở về bình an…

Xem thêm những tác phẩm trong “Việt Nam danh tác”

Rồi nàng còn cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao, nơi chiến trận mà chồng phải chịu đựng “Việc quân khó nhọc, thế giặc khôn lường…” rồi nàng còn nói lên những nỗi nhớ nhung khắc khoải ngóng trông ngày chồng về “Thổn thức tâm tình, thương người đất thú” đây là những lời nói ân tình đằm thắm của nàng khiến người đọc không khỏi nghẹn ngào xúc động trước tấm chân tình của 1 người phụ nữ như Vũ Nương… Khi xa chồng, tình cảm của Vũ Nương được tác giả xây dựng bằng những hình ảnh ướt lệ, độc đáo để nói lên sự thủy chung yêu chồng tha thiết và nỗi buồn cứ kéo dài theo năm tháng… “Bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” đó là cách mà tác giả mượn cảnh vật thiên nhiên để chỉ sự trôi chay của thời gian, làm nổi bật lên vẻ đẹp của Vũ Nương… Đâu chỉ vậy, nàng còn là một nàng dâu hiếu thảo, một người mẹ hiền, vừa một mình nuôi con nhỏ, vừa tận tình chăm sóc mẹ chồng trong những lúc ôm đau, bệnh tật, lo thuốc thang, lễ bái thần phật, luôn ân cần dịu dàng, lựa những lời ngon ngọt để khuyên lơn mẹ… Để rồi trong những lời trăn trối cuối cùng của bà mẹ chồng “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ…” đó âu cũng là 1 cách đánh giá, ghi nhận công lao của Vũ Nương đối với gia đình chồng, 1 con người hết lòng vì gia đình, hiếu thảo, thủy chung, lại tận tình chu đáo và hết mực yêu thương con… Với nhân cách như vậy, đáng lẽ ngày chồng về phải là 1 ngày hạnh phúc của 1 gia đình êm ấm, thế những không khí ngày Trương Sinh trở về không vui mà đượm sắc thái ngậm ngùi, Vũ Nương phải chịu nỗi oan khuất, chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói… mà Trương Sinh cứ đinh ninh là vợ hư “Mẹ Đản đi đâu, cha Đản theo đó” đã mắng nhiếc và đuổi đi… Vỗn là 1 kẻ ít học, ghen tuông vô cớ, lại hồ đồ vũ phu… Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ của vợ. Trong tình huống này, những lời phân trần của Vũ Nương càng làm cho nàng trở nên đẹp hơn với những phẩm chất của người phụ nữ… người vợ, người mẹ hết lòng bao dung vị tha vì gia đình… Ở lời thoại thứ nhất, nàng như phân trần để chồng hiểu rõ về tấm lòng của mình, để khẳng định tấm lòng chung thủy “cách biệt 3 năm giữ gìn 1 tiết” và nàng cầu xin Trương Sinh đừng nghi oan cho mình, có nghĩa là nàng đã cố gắng hết sức để hàn gắn cái gia đình hạnh phúc đang có nguy cơ tan vỡ… Thế nhưng, Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời phân trần của nàng, mọi sự biện bạch của hàng xóm, nàng bị đẩy vào bi kịch, bị vu oan là một người vợ mất nết hư thân. Nỗi đau đớn thất vọng khi bị đối xử bất công, đó cũng là nỗi lòng của nàng được giãy bày ở lời thoại thứ 2, được tác giả xây dựng bằng hàng loạt những hình ảnh ướt lệ, giàu sức biểu cảm “Nay trót đã bình rơi, trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió…”. Ngay cả quyền bảo vệ cho chính mình còn không có, ngay cả khi họ hàng hàng xóm bênh vực cũng trở nên bất lực. Hạnh phúc gia đình là khát khao bị tan vỡ, tình yêu không còn thì nỗi chờ chồng hóa đá cũng không thể nào làm được. Thất vọng đến tột cùng, nàng phải tìm đến dòng sông quê hương để bày tỏ lòng trong trắng của mình, những lời thoại của Vũ Nương như lời than, lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khuất và tiết trong sạch của mình… Tình tiết câu chuyện đầy kịch tính càng làm nổi bật hơn vẻ đẹp của Vũ Nương – 1 người vợ hiền lành đầy tiết nghĩa, thủy chung, 1 nàng dâu hiếu thảo, 1 người mẹ hết mực yêu thương con…, đó là những gì mà tác giả NGUYỄN DỮ muốn gửi gắm đến người đọc về hình ảnh của Vũ Nương hay cũng như bao người con gái khác sống trong Xã hội phong kiến… để rồi Lê Thánh Tông đã viết bài thơ “Lại loài viếng Vũ Thơ”

“Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ


Cung nước chi cho lụy đến nàng” Chiếc bóng thứ 2 xuất hiện, như nút mở câu chuyện, để giải oan cho Vũ Nương, hiểu chuyện, Trương Sinh chỉ phán 1 câu “Chuyện trót đã qua rồi”. Tác giả sử dụng yếu tố kỳ ảo… để Vũ Nương gặp được Trương Sinh…

Đọc câu chuyện, như càng giúp ta hiểu hơn, yêu hơn Vũ Nương bao nhiêu thì lại khiến ta căm ghét cái xã hội phong kiến đang thối nát và suy tàn bấy nhiêu… đó không chỉ là 1 Vũ Nương, còn là 1 nàng Kiều, 1 Hồ Xuân Hương chịu nhiều cay đắng trong cái xã hội cổ hủ lạc hậu – 1 xã hội nam quyền đẩy rẫy những bất công ai oán…