Cảm nhận về nhân vật khách trong đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

Tham khảo Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng lớp 10 ngắn gọn, hay nhất. Qua các dàn ý sau đây sẽ giúp các bạn nắm được những ý chính và cách triển khai các luận điểm nhằm hoàn thiện bài viết một cách hoàn chỉnh nhất.Mời các bạn cùng tham khảo!

Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu số 1

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Trương Hán Siêu và tác phẩm Bạch Đằng giang phú

- Khái quát chung về nhân vật “khách”: Là hình tượng quan trọng trong bài, là sáng tạo nghệ thuật của tác giả để gửi gắm tình cảm, cảm xúc, tư tưởng.

II. Thân bài

1. Hình tượng khách với những cuộc ngao du.

- Khách là hình tượng quen thuộc trong thể phú bởi thể loại này thường có lối đáp chủ - khách. Khách chính là sự phân thân của tác giả để thể hiện tâm hồn, tình cảm, tư tưởng.

- Tâm hồn tự do, phóng khoáng: Giương buồm, giong gió, lướt bể, chơi trăng, mải miết.

- Có vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng: Các địa danh Trung Quốc - Nguyên, Tương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng đều được tác giả biết đến qua sách vở, qua sự tưởng tượng.

- Có tình yêu thiên nhiên, thiết tha với quê hương, đất nước với quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc: Một loạt các danh lam thắng cảnh của Đại Việt - Đại Than, Đông Triều và dừng chân ở Bạch Đằng, dòng sông của chiến công lịch sử vẻ vang của dân tộc.

- Tâm hồn say mê, chủ động đến với thiên nhiên: Cách nói cường điệu “sớm Nguyên Tương – chiều Vũ Huyệt”, hành trình dài được khách thực hiện trong một ngày. Không gian, thời gian của cuộc hành trình đã nâng cao tầm vóc của khách.

2. Hình tượng khách qua những cảm xúc trước cảnh sông Bạch Đằng.

- Cảnh sắc thiên nhiên trên sông Bạch Đằng: Hùng vĩ, tráng lệ “sóng kình muôn dặm, đuôi trĩ một màu”, thơ mộng, trữ tình “ba thu, nước trời một sắc”, hoang vu, hiu hắt “san sát, đìu hiu, giáo gãy, xương khô”.

- Tâm trạng của khách:

+ Phấn khởi, thích thú khi đứng trước cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng mà thơ mộng

+ Buồn thương, tiếc nuối trước cảnh vật đổi thay, cho những người đã ngã xuống

+ Tư thế “đứng lặng giờ lâu” cho thấy tâm thế đắm chìm vào cảm xúc buồn thương, tiếc nuối của khách.

→Khách có những phát hiện tinh tế, cụ thể vẻ đẹp cảnh sắc phong phú, đa dạng của sông Bạch Đằng

→Là con người yêu thiên nhiên, tự hào về những cảnh sắc hào hùng gắn với lịch sử dân tộc

3. Hình tượng khách và niềm tự hào về những chiến công của quá khứ.

- Khách không trực tiếp tham gia vào câu chuyện của các vị bô lão nhưng câu chuyện về những chiến công vẻ vang của một thời lịch sử oanh liệt gắn với con sông Bạch Đằng đã gieo vào trong đầu khách niềm tự hào, niềm kiêu hãnh về quá khứ hào hùng của dân tộc.

- Khách đồng tình với các vị bô lão trong việc lí giải nguyên nhân của chiến thắng do thiên thời – địa lợi – nhân hòa và đặc biệt nhấn mạnh yếu tố con người. Cho thấy cái nhìn xa trông rộng đậm màu nhân văn của các bô lão và khách.

4. Hình tượng khách qua sự suy ngẫm về hưng vong của đất nước.

- Khách đã trực tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình

- Ca ngợi dòng sông Bạch Đằng – chứng nhân lịch sử

- Ca ngợi hai vị thánh quân tài năng, đức độ

- Ca ngợi cuộc sống thanh bình của dân tộc

→Khẳng định tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của khách.

5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Khắc họa suy nghĩ, hành động nhân vật.

- Sử dụng phép liệt kê, phóng đại, ẩn dụ

- Ngôn ngữ trang trọng, hàm súc

- Cách kể và tả ngắn gọn nhưng giàu sức biểu đạt.

III. Kết bài

- Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật

- Nhân vật khách hội tụ tất cả những phẩm chất trong con người tác giả, giúp người nghệ sĩ thể hiện cái tôi và những tư tưởng mang tính lịch sử.

Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu số 2

1. Mở bài

- Sông Bạch Đằng đã là một địa danh quen thuộc, là chứng nhân lịch sử đã viết lên nhiều mốc son chói lọi trong những trang sử vẻ vang của dân tộc, đã khơi gợi nhiều cảm hứng cho nhiều thi nhân văn sĩ.

- Trong đó phải kể đến một tác phẩm thuộc thể loại phú rất nổi tiếng trong văn học trung đại Việt Nam ấy là bài Phú sông Bạch Đằng của tác giả Trương Hán Siêu. Phần đầu của tác phẩm nổi lên hình tượng của và cảm xúc của nhân vật "khách" khởi đầu cho cả tác phẩm phú với lối đối đáp "chủ-khách".

2. Thân bài:

* Tác giả:

- Trương Hán Siêu (?-1354), quê ở huyện Yên Ninh nay thuộc thành phố Ninh Bình, ông là một nhà văn hóa kiệt xuất của thời trung đại đồng thời cũng một nhà chính trị xuất sắc dưới thời Trần.

* Tác phẩm:

- Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Trương Hán Siêu, được đánh giá là tác phẩm tiêu biểu của văn học yêu nước thời Lý - Trần, là đỉnh cao nghệ thuật của thể loại phú trung đại, tác phẩm còn được tôn vinh là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học Việt Nam.

* Hình tượng nhân vật "khách" thông qua hai cuộc du ngoạn:

- Cuộc du ngoạn ở các địa danh nổi tiếng của Trung Quốc, thông qua trí tưởng tượng và sách vở.

- Cuộc du ngoạn thực tế tại sông Bạch Đằng.

+ Vẻ đẹp thơ mộng và hùng vĩ của con sông.

+ Sự đìu hiu, lạnh lẽo của con sông vốn từng một thời oanh liệt với những chiến công lịch sử lẫy lừng.

=> Nhân vật "khách" là người có tráng chí bốn phương, cũng là người có tâm hồn thơ mộng, khoáng đạt ham thích du ngoạn, mở rộng tầm mắt, với một tâm thế tự nguyện và say sưa, chủ động. Hình tượng "khách" chính là phân thân của tác giả.

* Hình tượng "khách" với những cảm xúc khi đứng trước sông Bạch Đằng:

- Nỗi vui mừng trước cảnh đẹp của sông nước vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đó còn là niềm tự hào không giấu nổi trước dòng sông ghi dấu những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc.

- Nỗi buồn thương, nuối tiếc trước chiến trường xưa oanh liệt nay chỉ còn trơ trọi lại nỗi hoang vu và hiu quạnh khôn xiết, anh hùng nay đã mất, chỉ còn lại những dấu vết cũng sắp sửa phai mờ.

=> Lòng yêu nước, thương dân, nỗi lo cho vận mệnh dân tộc của Trương Hán Siêu.

3. Kết bài

- Nhân vật "khách" cũng là hiện thân của Trương Hán Siêu, trước tình hình đất nước đang trên đà suy vong, khi trở về thăm lại sông Bạch Đằng, bỗng chốc nảy sinh nhiều cảm xúc, mà phần nhiều đều xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, nỗi lo cho vận mệnh của dân tộc của một nguyên lão 4 triều.

- Mạch cảm xúc tâm trạng của nhân vật "khách" chính là tiền đề khởi nguồn cho những phần tiếp theo của bài phú.

Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng - Mẫu số 3

I. Mở bài

- Giới thiệu về Trương Hán Siêu, tác phẩmPhú sông Bạch Đằng(hoàn cảnh ra đời của bài phú), giới thiệu về hình tượng nhân vật khách.

II. Thân bài

1. Hình tượng nhân vật khách:tư thế của một con người có tâm hồn khoáng đạt.

- Khách dạo chơi phong cảnh không chỉ để thưởng thức vẻ đẹp thiên nhiên mà còn nghiên cứu cảnh trí đất nước, bồi bổ tri thức.

- Hoài bão lớn lao: "Nơi có ... chẳng biết"; "Đầm Vân Mộng chứa... vẫn còn tha thiết".

2. Tráng chí của kháchđược gợi lên qua hai loại địa danh:

- Địa danh trong điển cố Trung Quốc: rong chơi bể lớn, Sông NguyênTương, Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt - những vùng đất nổi tiếng, khách đã đi qua bằng sách vở.

- Địa danh thứ hai là những đia danh đất Việt, với không gian cụ thể: cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng hình ảnh hiện tại mang tính đương đại hiện ra trước mắt.

- Cảnh sắc thiên nhiên hiện lên hùng vĩ hoành tráng "Bát ngát sóng kinh muôn dặm – thướt tha đuôi trĩ một màu". Song cũng ảm đạm, hắt hiu "bờ lau san sát, bến lách đìu hiu – Sông chìm giáo gãy, gò đầy xương khô".

=> Tâm hồn phong phú nhạy cảm, tâm trạng của khách vừa vui vừa tự hào trước cảnh sông hùng vĩ, thơ mộng "nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu", tự hào trước dòng sông còn ghi bao chiến tích. Nhưng vừa buồn đau, tiếc nuối vì chiến trường xưa một thời oanh liệt nay trơ trọi, hoang vu, thời gian đã làm mờ bao dấu vết.

3. Nghệ thuật:lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tính triết lí, ngôn từ trang trọng, hào hùng, vừa lắng đọng, gợi cảm.

III. Kết bài

- Với hình tượng nhân vật khách, bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc, tự hào vềtruyền thống anh hùng và tư tưởng nhân văn cao đẹp. Sự hoài niệm về quá khứ là niềm tự hào về truyền thống dân tộc của tác giả.

---/---

Như vậy,Top lời giải đã vừa cung cấp những dàn ý cơ bản cũng như một số bàidàn ý hay Dàn ý Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng lớp 10để các em tham khảo và có thể tự viết được một bài văn mẫu hoàn chỉnh.Chúc các emhọc tốt môn Ngữ Văn !

Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là một bài Phú nổi tiếng trong lịch sử văn học dân tộc, đặc biệt tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng được hình tượng nhân vật khách như một hình tượng điển hình của dòng chảy văn học.Vậy thì hôm nay hãy cùng phân tích hình tượng này để thấy được sự tài hoa của ngòi bút Trương Hán Siêu trong bài phân tích nhân vật khách nhé

Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông BạchĐằng - Bài mẫu 1

Cảm nhận về nhân vật khách trong đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

Người nghệ sĩ ra đi, nhưng tác phẩm anh để lại cho đời là bất tử. Và những tác phẩm lại sống trong lòng người đọc muôn thế hệ bằng những thông điệp nhân văn, bằng những hình tượng nghệ thuật giàu giá trị. Có thể nói, bài Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu đã xây dựng được một hình tượng nhân vật như thế trong dòng chảy lịch sử văn học Việt Nam. Hình tượng nhân vật khách.

Phú là một thể văn cổ, có những đặc điểm và quy phạm riêng, về mặt xây dựng nhân vật và hình tượng, thì trong bài phú nhân vật khách là một nhân vật được tác giả hư cấu, tưởng tượng, xây dựng theo hình thức đối đáp với một nhân vật nào đó (trong bài này là với các vị bô lão) Nhân vật khách trong bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu là hình tượng trung tâm của toàn bộ tác phẩm, mạch chảy mạch kết cấu của văn bản theo toàn bộ những dòng suy tưởng, đó là sự bộc bạch cái tráng chí bốn phương tha thiết và là nỗi niềm về cả một thời dĩ vãng oanh liệt của dân tộc năm xưa trên sông Bạch Đằng.

Mở đầu bài phú, nhân vật khách xuất hiện như một bậc tao nhân mặc khách với tráng chí bốn phương ngao du sơn thủy, lấp đầy tâm hồn mình bởi vẻ đẹp tráng lệ, hùng vĩ của thiên nhiên non sơn kỳ thú:

“Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ huyệt”

Các từ "chơi vơi", "mải miết" tạo cho người đọc một cảm giác mới mẻ về nhân vật khách, một bậc tài tử lãng du cùng với thú vui sơn thủy, đắm chìm trong không gian rộng lớn, thơ mộng khoáng đạt. Thiên nhiên mây, gió, trăng bỗng trở thành người bạn của nhân vật khách với thú vui tao nhã. Cách liệt kê một loạt những địa điểm nổi tiếng cho thấy khả năng đi nhiều, biết nhiều và tráng chí bốn phương của nhân vật khách, gợi nên một tâm hồn phóng khoáng, thích ngao du và mang vẻ đẹp lộng gió như được hơi thở của thiên nhiên đằm vào điệu tâm hồn nhân vật.

Tiếp tục người đọc nhận thấy rằng, trong rất nhiều điển tích điển cố, chỉ có điển tích Tử Trường được nhắc đến, nhưng sự gợi nhắc của tác giả ở đây không phải để nhấn mạnh về việc nhân vật khách học cách ghi chép sử ký, mà là học cái thú tiêu dao, ngao du sơn thủy của những bậc tài tử ngày trước.Đó không chỉ là việc trau dồi, học hỏi trong những hành trình đã đi qua, mà còn là sự chiêm nghiệm của nhân vật khách đầy sâu sắc về những thắng cảnh lịch sử của dân tộc. Cụ thể, là ở đoạn thơ sau, khi nhân vật khách hồi tưởng về quá khứ hào hùng mà cũng đầy bi thương của dân tộc.

“Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu”

Khác hẳn với không gian rộng lớn và khoáng đạt trên kia, cảnh vật giờ dường như đã hóa thảm sầu, nhuốm một màu buồn thấm lan tỏa lên toàn bộ bức tranh chung. Đó là niềm xót thương, cũng là sự câm lặng nén chặt đau thương khi nghĩ đến những người anh hung, những người chiến sĩ đã hi sinh, đã ngã xuống, đã hóa thân linh hồn mình vào mảnh đất nơi đây. Đó là phút trầm mặc để tri ân, để tưởng niệm về những cống hiến và sự hi sinh vĩ đại của họ. Những dấu vết xưa còn lưu lại như một gợi nhắc về dấu phong xưa, về quá khứ vàng son của lịch sử dân tộc, đồng thời là một điểm tựa lịch sử để thế hệ sau noi gương, trau mình.

Từ tiếc được đặt ở đầu câu thơ, thể hiện mạnh mẽ cảm xúc trong lòng nhân vật khách, đó là sự tiếc nuối và nỗi buồn hoang hoải của nhân vật khách khi chứng kiến sức mạnh ăn mòn vạn vật của thời gian đã làm phai mờ dấu tích oai hùng một thời. Theo dòng cảm xúc ấy, bao nhiêu thương cảm dồn nén ấy hóa ra lại đẩy lên trong lòng thi nhân một ước vọng được một lần nữa sống lại những khoảnh khắc oai hùng như thuở xưa. Con sông Bạch Đằng đã là nơi ghi dấu của những chiến tích lịch sử hào hùng, nơi mà quân địch thất bại ê chề nhục nhạc, giọng kể vừa hào hùng vừa xen lẫn những yếu tố lãng mạn, tạo cảm giác đầy cuốn hút cho người đọc. Khiến cho dẫu người đọc đến từ những thế sau, vẫn cảm nhận một cách chân thực, sống động quá khứ lịch sử hào hùng của cha ông, để cùng hòa điệu, hòa nhịp với dòng chảy lịch sử oai hùng của một thời kì vĩ đại.

Sự hồi tưởng về quá khứ vẻ vang mà cũng đầy đau thương của nhân vật khách phải chăng chính là đang thể hiện một vẻ đẹp đạo lí truyền thống ngàn đời của dân tộc, đó là uống nước nhớ nguồn, tìm về, nhớ về quá khứ lịch sử là một cách để tri ân, để tưởng nhớ, và để sửa mình sao cho đúng đắn với sự hy sinh mà cha ông ta đã bỏ ra.

Qua ngòi bút tài hoa của Trương Hán Siêu, thông qua dòng chảy trong mạch cảm xúc của nhân vật khách như giúp người đọc bước vào thế giới lịch sử xa xưa, để cùng cảm nhận về những thành tựu vẻ vang, cũng như sự mất mát hi sinh lớn lao không gì tả xiết của những thế hệ đã ngã xuống. Và một lần nữa, cho ta hiểu thêm về tráng trí hải hồ ngao du của nhân vật khách.

Phân tích hình tượng nhân vật khách trong bài Phú sông BạchĐằng - Bài mẫu 2

Cảm nhận về nhân vật khách trong đoạn 1 bài Phú sông Bạch Đằng

Nếu như Lê Quý Đôn từng khen phú đời Trần: “khôi kì, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà Tống”, thì điều đó thật đúng đối với Bạch Đằng giang phú. Bài phú sử dụng nhiều hình ảnh, điển tích chọn lọc, kết hợp với sự sáng tạo hình tượng nhân vật “khách” một nhân vật đại diện cho hiện tại, cho sự phân thân của cái tôi tác giả, một cái tôi tráng sĩ của đất nước.

Phú Sông Bạch Đằng thể hiện tình yêu quê hương đất nước, niềm tự hào về một dân tộc có tinh thần kiên cường, bất khuất, mưu lược cũng như nêu cao tinh thần, ngợi ca tấm lòng và khẳng định vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

Mở đầu là con người ung dung, tự tại, đam mê say đắm cảnh sắc thiên nhiên :

Khách có kẻ :

Giương buồm giong gió chơi vơi,

Lướt bể chơi trăng mải miết.

Khách đi để mở mang, để du ngoạn nơi biển lớn, sông hồ và những vùng đất nổi tiếng:

“Qua cửa Đại Than…

… xương khô”

Trong những dòng thơ đầu tiên, tác giả đặc biệt tạo ấn tượng về chiều sâu trong bề dày lịch sử của Bạch Đằng giang. Đó vừa là dòng sông địa lý, vừa là dòng sông lịch sử với bao lớp sóng lớn trùng điệp. Điều đáng lưu ý là ngoài vẻ thiêng liêng hùng vĩ, sông Bạch Đằng còn nên thơ và trữ tình, nó dịu dàng e ấp như những nàng thơ, nó thơ mộng nên duyên với sóng nối sóng, với thuyền bè nối đuôi nhau trôi dập dềnh trên sông. Người xưa thường nói tức cảnh sinh tình, có lẽ bởi thế mà đứng trước thiên nhiên vừa nên thơ vừa trữ tình ấy khiến lòng người rạo rực, khiến nỗi buồn niềm vui như lẫn lộn. Nơi chiến trường ta từng chiến đấu và chiến thắng, nơi trận thủy chiến lừng lẫy trong lịch sử nhưng kể sao cho hết những hi sinh mất mát với bao giáo gãy, bao máu và mồ hôi đã đổ xuống xương khô. Đất trời cũng như hiểu lòng người, lau lách như thể trở về quá khứ, gợi lại những ngày chiến đấu căng thẳng để thế hệ hôm nay không tránh khỏi động lòng tiếc nuối, xót thương cho bao anh hùng đã khuất.

Người "tráng chí bốn phương" với tâm hồn lúc nào cũng "vẫn còn tha thiết”:

Nơi có người đi, đâu mà chẳng biết.

Đầm Vân Mộng chứa vài trăm trong dạ cũng nhiều,

Đoạn đầu này sử dụng triệt để thủ pháp tượng trưng. Cái "tráng chí bốn phương" của khách được dựng nên bằng những địa danh. Có loại địa danh gợi ra thời gian quá khứ xa xăm :

Sớm gõ thuyền chừ Nguyên, Tương,

Chiều lần thăm chừ Vũ Huyệt.

Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt,

Cũng có thể nghĩ đấy mới chỉ là những lời tâm niệm của Trương Hán Siêu bởi các địa danh nói trên đều là điển cố trong văn liệu, ông đã tò mò tìm hiểu hay vô tình bắt gặp mà ghé thăm chúng qua trang sách, câu văn chứ chưa một lần đặt chân đến. Song cũng vì vậy, thiên nhiên như cái đích tìm kiếm của ông dường như có mang một hàm nghĩa thâm thuý: đây là nơi mà văn hóa hội tụ, là dấu mốc để con người nhìn xa vào lịch sử. Vẫn trong bài phú về sông Bạch Đằng, tiếp theo mấy câu vừa dẫn, ông liền bày tỏ ý nguyện bắt chước “thú tiêu dao” của Tử Trường tức Tư Mã Thiên – nhà viết sử nổi tiếng của Trung Quốc, trước khi bắt tay cầm bút đôi chân đã mỏi mòn những ngày rong ruổi đến và đi, đi và cảm nhận, cảm nhận và học hỏi…

Ta để ý nếu ở phần trên, các địa danh thực ra đều là ảo thì đến đây mới là địa danh thực mà tác giả đã trực tiếp đặt chân như cửa Đại Than, bến Đông Triều, sông Bạch Đằng (Sông Bạch Đằng có nguồn chính chảy từ sông Lục Đầu, xưa gọi là cửa Bạch). Hai chi lưu là sông Chanh dài khoảng 18km với dòng chính đổ ra cửa Nam Triệu. Trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi từng mô tả: “Sông Vân Cừ (tức sông Bạch Đằng) rộng 2 dặm linh 69 trượng, sâu 5 thước, núi non cao vót, nước suối giao lưu, sóng tung lên tận trời, cây cối lấp bờ, thật là nơi hiểm yếu”. Không chỉ vậy ngày nay dòng sông này vẫn còn tên bến Rừng, phà Rừng trên đường sang Hải Phòng. Người Quảng Yên trước đây từng lưu truyền câu “Con ơi, nhớ lấy lời cha/ Gió nồm, nước rặc chớ qua sông Rừng” để nói lên sự hiểm yếu của sông là vậy.) Nhà thơ đưa ra một cái tên Bạch Đằng mang trong mình dấu mốc lịch sử của trận thủy chiến với những chiến công vang dội của nó.

Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông để nổi bật sự thảnh thơi của nhân vật trữ tình nổi tiếng tính tình cương trực, tâm hồn phóng khoáng. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đặc điểm phóng khoáng hào mại của khách. Nói cách khác nhân vật khách cũng chính là “cái tôi” tác giả. Đó là những cá nhân sôi nổi, ham hiểu biết, muốn di dưỡng tinh thần, sống cuộc đời tự do tự tại. Như vậy, khách được giới thiệu bằng tất cả niềm trân trọng như cách tác giả tự khẳng định, tự giới thiệu mình: một hồn thơ hào sảng, một khách hải hồ cũng là kẻ sĩ luôn một lòng thiết tha với đất nước, quê hương. Qủa đúng, nhân vật khách có tính chất công thức của thể Phú vừa chân thực, vừa sinh động. Vũ Huyệt, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt, đầm Vân Mộng là những địa danh đặc biệt nổi tiếng mà khách đã đặt chân ngao du. Nếu như những địa danh của Trung Quốc thể hiện tráng chí bốn phương của khách, thì mỗi miền đất Việt ghi dấu bước chân người tráng sĩ này đều mang dấu ấn của trái tim sục sôi yêu nước.

….Bát ngát sóng kình muôn dặm,

Thướt tha đuôi trĩ một màu.

Nước trời một sắc,

Phong cảnh ba thu.

Bờ lau san sát,

Bến lách đìu hiu

Sông chìm giáo gãy,

Gò đầy xương khô.

Buồn vì cảnh thảm,

Đứng lặng giờ lâu.

Thương nỗi anh hùng đâu vắng tá,

Tiếc thay dấu vết luống còn lưu.

Trước hình ảnh Bạch Đằng “bát ngát sóng kình muôn dặm” , “ thướt tha đuôi trĩ một màu” với “ nước trời…”, “ phong cảnh…”, “ bờ lau…”, “ bến lách…” như đẩy lòng người rơi vào bức tranh tâm trạng với nỗi buồn vui man mác. Vui khi thiên nhiên ấy, dòng sông ấy vẫn sống vĩnh hằng nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, vui vì nó vẫn cuồn cuộn chảy dù mang trong mình bao dấu tích của cuộc chiến khắc nghiệt thế nhưng ta chợt thoáng buồn. Nỗi buồn khi yên bình hôm nay phải đánh đổi bằng máu xương của bao thế hệ cha anh đã nằm xuống, nỗi buồn vì trang sử hào hùng của dân tộc đã ghi hằn máu và nước mắt của biết bao trái tim quả cảm. Sự vấn vương ở đây có chút gì đó làm lòng ta nặng trĩu khi một phút trầm tư nhìn lại nhịp thời gian chảy trôi quá đỗi vô tình cũng như lòng người nhanh chóng đổi thay. Nói cách khác, những âm hưởng trữ tình đối lập ở trong tác phẩm đã tạo nên một ngân vang sâu thẳm và ngân vang này chính là triết lý: sự sống là một tiếp biến không ngừng không nghỉ, cái đang diễn ra và cái đã đi vào vĩnh cửu cứ đan quyện lấy nhau, mà cái nhân tố có khả năng kết nối làm nên sự đan quyện ấy, khiến cho sợi dây chuyền vô hình nghiệt ngã của thời gian có lúc tưởng như bị đảo ngược: hiện tại không hẳn đã trôi về quá khứ tất cả, mà có phần nào đó còn trôi theo chiều ngược lại, còn có “dấu vết lưu lại” với hậu thế.

Như vậy qua hình tượng nhân vật khách ta thấy chân lí : Hào kiệt đời nào cũng có, đó là sức mạnh, là niềm tin, cũng là niềm tự hào dân tộc tư tưởng nhân văn cao đẹp. Với tâm trạng hân hoan, khách vừa đề cao công lao to lớn của các vị anh hùng đời Trần, vừa bày tỏ niềm tin vào tương lai vững mạnh, trường tồn và nêu cao đức cao của dân tộc. Sức mạnh của non sông đất nước không phải ở địa thế hiểm trở mà nằm chính ở niềm tin và ý chí kiên gan bền bỉ của con người (Giặc tan muôn thuở thanh bình – Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao).

Cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình đặc sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát triết lý, ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, là ngôi sao sáng ngời khẳng định chủ quyền dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc “khắc họa một cảnh trí mỹ lệ của Tổ quốc với cả hình bóng chiến công oanh liệt của quân dân ta thời trước”, là “một bài phú mẫu mực chẳng những thể hiện đậm nét hào khí Đông A của văn học thời trần mà còn có giá trị to lớn trong lịch sử văn học nước nhà.”.