Show
Hệ thống cơ chế tiền tệ trong chế độ bản vị vàng được tính toán như thế nào? A. Tính theo hàm kim lượng đồng tiền mỗi nước kể cả các đồng tiền không quy định hàm lượng vàng B. Bằng một đồng tiền chủ chốt làm trụ cột, các đồng tiền đều so sánh với đồng tiền chủ chốt C. Tính toán đơn giản, tính giá tiền tệ tính theo “Đồng giá vàng”, lấy hàm kim lượng của tiền tệ làm căn cứ D. Tính toán theo từng đôi (Song phương) các đồng tiền có quan hệ trực tiếp với nhau Hướng dẫn Chọn C là đáp án đúng 04/11/2020 48 Câu hỏi Đáp án và lời giải Đáp án và lời giải đáp án đúng: C
Nếu bạn là đam mê tài chính chắc hẳn bạn từng nghe từ: Chế độ bản vị vàng. Đây chính là thời kì đỉnh cao của kim loại quý này khi tất cả mọi thứ đều được định giá trị thông qua vàng. Nào hôm nay chúng ta cũng tìm hiểu chế độ này. Chế độ bản vị vàng và điều ít ai biết đếnChế độ bản vị vàng là một hệ thống mà gần như tất các quốc gia sẽ cố định giá trị đồng tiền quốc nội theo một lượng vàng cụ thể, hoặc liên kết tiền tệ của nước mình với tiền tệ của một quốc gia đã tham gia chế độ. Đồng nội tệ được tự do chuyển đổi thành vàng theo giá cố định và không hạn chế việc xuất nhập khẩu vàng. Vàng được lưu hành như nội tệ cùng với tiền kim loại và tiền giấy. Vì mỗi loại tiền được cố định theo vàng, tỷ giá hối đoái giữa các loại tiền tham gia cũng được cố định. Các ngân hàng trung ương có hai chức năng chính sách tiền tệ quan trọng theo Bản vị vàng
Quá trình phát triển của chế độ bản vị vàngChế độ bản vị vàng đã có từ những năm 1870 cho đến khi Chiến tranh thế thứ nhất bùng nổ (1914). Ở năm đầu thế kỷ 19, sự bất ổn sau khi chiến tranh do Napoleon khởi xướng đã tạm lắng, thì tiền được chia làm 2 loại: vật chất ( vàng, bạc, tiền xu bằng đồng) và tiền giấy được ngân hàng cấp phát. Ban đầu chỉ có Vương Quốc Anh cùng với thuộc địa của họ là sử dụng chế độ bản vị vàng. Tới năm 1854, Bồ Đào Nha cũng quy ước tiền của mình theo bản vị. Tại thời điểm này, các quốc gia khác thường dùng tiêu chuẩn bạc hoặc tiêu chuẩn lưỡng kim. Lịch sử phát triển của chế độ bản vị vàngNăm 1871, nước Đức mới thống nhất và Pháp được trả khoản phí bồi thường chiến tranh (chiến tranh Pháp-Phổ năm 1807), đã từng bước thực hiện đưa chế độ bản vị vàng vào hệ thống tài chính trong nước. Dưới tác động của Đức, sự thống trị về kinh tế và chính trị của Vương quốc Anh cùng với sức hấp dẫn của thị trường tài chính London, đã tạo tiền đề cho các nước khác chuyển sang dùng vàng. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng việc chuyển đổi sang Chế độ bản vị vàng nguyên chất dựa trên thay đổi trong nguồn cung tương đối của vàng và bạc. Bất chấp điều đó, vào năm 1900, tất cả các quốc gia ngoại trừ Trung Quốc và một số quốc gia Trung Mỹ, đều sử dụng Tiêu chuẩn Vàng. Điều này kéo dài cho đến khi nó bị gián đoạn bởi Chiến tranh thế giới thứ nhất. Những nỗ lực định kỳ để quay trở lại chế độ Bản vị vàng cổ điển thuần túy đã được thực hiện trong thời kỳ giữa các cuộc chiến tranh, nhưng không có sản phẩm nào tồn tại được sau cuộc Đại suy thoái những năm 1930. Cách thức hoạt động của Bản vị vàngBản vị vàng là nguồn cung tiền của một quốc gia được liên kết với vàng. Sự cần thiết để có thể chuyển đổi từ tiền định danh thành vàng, đã được quy định nghiêm ngặt số tiền định danh được lưu thông so với khối lượng vàng dự trữ tại ngân hàng trung ương.Hầu hết các quốc gia đều có tỷ lệ vàng hợp pháp tối thiểu bằng số giấy bạc / tiền tệ được phát hành hoặc các giới hạn tương tự khác. Chênh lệch cán cân thanh toán quốc tế được giải quyết bằng vàng. Các quốc gia có thặng dư sẽ nhận được dòng vốn vàng, trong khi các quốc gia thâm hụt sẽ nhận được dòng chảy vàng. Về lý thuyết, thanh toán quốc tế bằng vàng có nghĩa là hệ thống tiền tệ quốc tế dựa trên Bản vị vàng đang tự điều chỉnh. Cụ thể, một quốc gia khi thâm hụt cán cân thanh toán sẽ bị chảy ra vàng, giảm cung tiền, giảm giá trong nước, tăng khả năng cạnh tranh;do đó, sự thâm hụt cán cân thanh toán điều chỉnh. Và ngược lại, khi cán cân thanh toán nghiên về sự thặng dư. Cách thức hoạt động của bản vị vàngTheo lý thuyết cách vận hành chế độ bản vị vàng hoạt động trong hoàn cảnh lý tưởng, nhưng trên thực tế nó lại phức tạp hơn nhiều. Quá trình tự điều chỉnh này sẽ được thúc đẩy bởi các ngân hàng trung ương. Công cụ chính của ngân hàng đó chính là lãi suất chiết khấu, ảnh hưởng trực tiếp tiếp tới lợi nhuận thị trường. Lãi suất được đẩy lên do hai kênh: Thứ nhất, việc đi lãi suất suất vay cao hơn, buộc phải giảm các chi phí đầu tư và nhu cầu trong nước. Tạo áp lực lên giá nội địa làm giá giảm, nâng cao khả năng cạnh tranh và xuất nhập khẩu. Thứ hai, lãi suất cao sẽ thu hút được nguồn FDI, cải thiện tài khoản vốn của cán cân thanh toán. Lưu ý: Lãi suất giảm sẽ có tác động ngược lại. Việc sử dụng các phương pháp như vậy có nghĩa là bất kỳ sự điều chỉnh nào của sự mất cân bằng kinh tế sẽ được đẩy nhanh và thông thường sẽ không cần đợi đến thời điểm cần vận chuyển một lượng vàng đáng kể từ nước này sang nước khác. Hạn chế khi sử dụng chế độ bản vị vàng:Việc phát hiện ra những mỏ vàng mới dễ dẫn khả năng lạm phát phi mã và tăng cung ứng tiền. Đối với những quốc gia khan hiếm tài nguyên khoáng sản nhất là vàng sẽ rơi vào bị động: Nguồn cung bị hạn chế và kìm hãm kinh tế. Kết luận Ngày nay, chế độ bản vị vàng gần như đã không còn được sử dụng nữa vì nhiều lý do khác nhau. Nhưng cho tới bây giờ thì vàng vẫn còn là tài sản an toàn mà nhiều chọn dùng để đầu tư. Bản vị vàng hay kim bản vị là một hệ thống tiền tệ mà phương tiện tính toán kinh tế tiêu chuẩn được ấn định bởi hàm lượng vàng. Theo chế độ bản vị vàng, tổ chức phát hành tiền mặt (dưới dạng tiền giấy hoặc tiền kim loại) cam kết sẵn sàng nhận lại tiền mặt và thanh toán vàng nếu có nhu cầu. Các chính phủ sử dụng thước đo giá trị cố định chấp nhận thanh toán vàng bằng tiền mặt của chính phủ nước ngoài sẽ có mối quan hệ tiền tệ cố định (tiền mặt lưu thông, tỷ giá hối đoái,..). Cùng đánh giá sàn tìm hiểu về bản vị vàng và những ưu nhược điểm ở bài viết sau. Bản vị vàng là gì?Bản vị vàng (tên tiếng Anh là Gold Standard) là một hệ thống tiền tệ, trong đó giá trị đồng tiền của một quốc gia được tính toán dựa trên một lượng vàng nhất định. Theo chế độ bản vị vàng, các quốc gia đồng ý quy đổi tiền giấy thành một lượng vàng cố định. Mỗi quốc gia sử dụng bản vị vàng quy định một mức giá cố định cho vàng và mua và bán vàng ở mức giá đó. Giá cố định đó sẽ được sử dụng để xác định giá trị của tiền tệ. Hiện nay, không có quốc gia nào sử dụng hệ thống bản vị vàng. Anh ngừng sử dụng bản vị vàng vào năm 1931, Mỹ làm theo vào năm 1933 và từ bỏ tàn dư của hệ thống này vào năm 1973. Bản vị vàng được thay thế hoàn toàn bằng tiền fiat – loại tiền tệ được phát hành, quản lý và công nhận hợp pháp bởi chính phủ của một quốc gia. ở quốc gia đó. Ví dụ, đồng tiền hợp pháp của Việt Nam là đồng Việt Nam (VND), đồng tiền hợp pháp của Mỹ là USD (đô la) hoặc đồng tiền hợp pháp của Vương quốc Anh là bảng Anh (GBP). Đây là đạo luật được Hoa Kỳ thông qua vào năm 1900, đưa vàng trở thành tiêu chuẩn duy nhất để hỗ trợ tiền giấy và ngừng sử dụng tiêu chuẩn kép (chế độ cho phép bạc thay vì vàng). Đạo luật Bản vị vàng đã ấn định giá của Đô la Mỹ ở mức 25 8⁄10 gren vàng 90 (độ tinh khiết 90%), tương đương với 23,22 gren vàng nguyên chất. Đặc điểm của chế độ bản vị vàng
Bản vị vàng cũng có những hạn chế sau:
Vào thời điểm trong lịch sử mà vàng đóng vai trò là đơn vị cơ bản của thương mại quốc tế, đó là thời kỳ của đạo Hồi (662 đến 1258), cũng là thời kỳ đỉnh cao của thương mại quốc gia. Ý trong thời kỳ Phục hưng, đáng chú ý nhất là vào thế kỷ XIX. Vàng đóng vai trò là kim loại quý để cất giữ tiền tệ. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, nền kinh tế của nhiều nước gặp nhiều khó khăn. Đến năm 1931, Anh buộc phải đình chỉ chế độ bản vị vàng. Năm 1934, Mỹ nâng giá vàng thế giới lên 35 USD / ounce, khiến các nước khác bán vàng đổi lấy USD, tạo cho Mỹ khả năng thao túng thị trường vàng quốc tế. Vào cuối Thế chiến thứ hai, các quốc gia có ảnh hưởng ở châu Âu đã tham gia Hiệp định Bretton Woods, một quy ước mà tiền tệ của các quốc gia đều được định giá bằng đô la và đồng đô la được đổi lấy vàng. với giá cố định là $ 35 / ounce. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai gần kết thúc, nhờ “bản vị vàng”, Mỹ đã nắm trong tay 75% lượng vàng tiền tệ của thế giới. Nhưng, khi nền kinh tế thế giới dần hồi phục, dự trữ vàng của Mỹ bắt đầu giảm. Đồng thời với nhu cầu nhập khẩu cao, Mỹ rơi vào tình trạng lạm phát cao vào những năm 60 của thế kỷ XX. Năm 1968, Mỹ và một số nước châu Âu đình chỉ “bản vị vàng” và cắt giảm việc mua bán vàng trên thị trường thế giới, đồng ý để giá vàng lúc bấy giờ thả nổi trên thị trường tự do, nhằm giảm áp lực cho các nước. đang phải đánh giá cao tiền tệ của họ. Cạnh tranh kinh tế với các nước khác và các khoản nợ và chi phí của cuộc chiến ở Việt Nam đã gây áp lực to lớn lên các khoản thanh toán quốc tế của Hoa Kỳ. Năm 1968, các nước gây sức ép và yêu cầu Mỹ cho phép họ đổi đô la lấy vàng, Tổng thống Nixon của Mỹ đã phải ngừng quy đổi đô la sang vàng vào năm 1971. Điều này dần dẫn đến “bản vị vàng” ngã. Đến năm 1978, “bản vị vàng” chính thức sụp đổ. Từ trước đến nay, vàng vẫn là vật dự trữ quan trọng trong các ngân hàng trung ương cùng với chính phủ, vàng là phương tiện duy trì tính thanh khoản cao và có chức năng bảo toàn giá trị. Theo thebalance.com vào năm 1913, Quốc hội đã thành lập Cục Dự trữ Liên bang để ổn định giá trị của vàng và tiền tệ ở Hoa Kỳ. Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra, Hoa Kỳ và các nước châu Âu đã đình chỉ chế độ bản vị vàng để họ có thể in đủ tiền chi trả cho các chi phí quân sự của mình. Các quốc gia cũng nhận ra rằng việc buộc đồng tiền của họ với vàng là không cần thiết và có thể gây hại cho sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Chế độ bản vị vàng đang gây ra tình trạng giảm phát và thất nghiệp trên diện rộng trong nền kinh tế thế giới. Vì vậy, các quốc gia bắt đầu từ bỏ chế độ bản vị vàng hàng loạt vào những năm 1930 khi cuộc Đại suy thoái lên đến đỉnh điểm. Hoa Kỳ cuối cùng đã từ bỏ chế độ bản vị vàng hoàn toàn vào năm 1933. Như vậy, chế độ bản vị vàng đã hoàn toàn sụp đổ và được thay thế bằng hệ thống tiền pháp định từ năm 1933. Hiện nay, không có quốc gia nào trên thế giới còn áp dụng chế độ bản vị vàng. Bản vị vàng là một trong những bước đi táo bạo trong lịch sử tài chính thế giới. Nhưng có nhiều lý do khiến “bản vị vàng” không còn tồn tại. Hy vọng bài viết có thể mang đến nhiều thông tin bổ ích cho nhà đầu tư. |