Hợp tác xã được quản lý bởi cơ quan nào năm 2024

Hợp tác xã là thành quả của nền văn minh nhân loại, được khởi nguồn và xuất phát từ mong muốn, ước mơ về một xã hội dân chủ, công bằng, một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Vì thế, hợp tác xã là một khái niệm và là một tổ chức mang tính phổ biến trên thế giới, mang tính xã hội và nhân văn sâu sắc; được hình thành cách đây gần hai thế kỷ ở Châu Âu và từ đó được phát triển ở hầu khắp các nước trên thế giới. Hợp tác xã được thành lập để phục vụ nhu cầu của xã viên và nhằm tạo lợi ích cho các xã viên hơn là cho những nhà đầu tư. Xu hướng xã viên tự điều hành này làm cho hợp tác xã khác về cơ bản so với các hình thức hợp tác khác. Thêm vào đó, các đặc trưng về cấu trúc và nguyên tắc điều hành lại làm hợp tác xã khác biệt hơn nữa so với các mô hình kinh doanh khác. Ở hầu hết các nước, mô hình hợp tác xã chỉ là một trong các mô hình kinh doanh hợp pháp.

Ngày 23 tháng 9 năm 1945, Đại hội liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) lần thứ 31 đã định nghĩa về hợp tác xã như sau: “Hợp tác xã là hiệp hội hay là tổ chức tự chủ của cá nhân liên kết với nhau một cách tự nguyện nhằm đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một tổ chức kinh tế cùng nhau làm chủ chung và kiểm tra dân chủ”. Đến khuyến nghị số 139 về khuyến trợ hợp tác xã năm 2002 của Tổ chức lao động thế giới (ILO) cũng đưa ra khái niệm tương tự nhưng có đầy đủ hơn khi quy định “…thỏa mãn nhu cầu và nguyện vọng chung của mình về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một doanh nghiệp đồng sở hữu và được quản lý một cách dân chủ”.

Khuyến cáo 127 năm 1966 của Đại hội Liên đoàn Lao động thế giới (ILC) về vai trò của HTX trong phát triển kinh tế - xã hội tại các nước đang phát triển hầu như đã đạt được sự thống nhất cơ bản. Hợp tác xã là "một hiệp hội của những người tự nguyện gia nhập nhằm đạt được kết quả chung thông qua việc tạo dựng một tổ chức quản lý dân chủ, góp vốn công bằng và chấp nhận chia sẻ bình đẳng các rủi ro và lợi nhuận từ các hoạt động mà mình tham gia một cách chủ động" (đoạn 12 (1) (a)). Khái niệm này bao hàm tất cả: Lý thuyết hợp tác xã điển hình (các giá trị và nguyên tắc) và cơ cấu hợp tác xã điển hình.

Tuyên bố về quy định về hợp tác xã được thông qua tại Đại hội đồng Liên minh hợp tác xã quốc tế năm 1995 quy định:

Hợp tác xã là các tổ chức tự nguyện và mở rộng để mọi người có thể sử dụng các dịch vụ của mình và sẵn sàng nhận các trách nhiệm xã viên mà không bị phân biệt về giới tính, xã hội, nguồn gốc, chính kiến hay tôn giáo.

Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) thông qua vào năm 1987:

Hợp tác xã là cơ sở kinh doanh do những người sử dụng tự làm chủ và tự quản lý, lợi nhuận được chia dựa trên cơ sở của việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ.

Hợp tác xã nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành viên; phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của thành viên và thoả mã nhu cầu chung của họ và là trung tâm của hợp tác xã.

Thông qua các khái niệm trên có thể thấy được những điểm chung như:

Thứ nhất, yếu tố chính của hợp tác xã, đó là: thành viên tự nguyện. Nếu có sự ép buộc tham gia vào hợp tác xã là trái ngược với nguyên tắc thành lập của hợp tác xã. Người bị ép buộc hành động trái với nguyện vọng của họ, không thực sự là hợp tác. Hợp tác xã thực sự phải hình thành từ sự tin tưởng và sự giúp đỡ lẫn nhau, không thể là mệnh lệnh. Trong hợp tác xã thực sự, xã viên tự nguyện gia nhập và tự do rời bỏ hợp tác xã vào bất cứ lúc nào.

Thứ hai, ba nguyên tắc chung của hợp tác xã: xã viên tự làm chủ, tự quản lý và phân chia lợi nhuận.

Nguyên tắc “tự làm chủ” áp dụng đối với những người sử dụng dịch vụ của hợp tác xã giúp đỡ tài chính đối với hợp tác xã và từ đó làm chủ hợp tác xã. Xã viên có trách nhiệm góp vốn một phần vốn tối thiểu cho hợp tác xã. Việc góp vốn bình đẳng của xã viên theo tỷ lệ bằng nhau theo dịch vụ mà xã viên sử dụng của hợp tác xã. Phần vốn góp này tạo nên việc cùng sở hữu.

Nguyên tắc “tự quản lý” có nghĩa là xã viên hợp tác xã điều hành công việc trực tiếp thông qua việc bỏ phiếu cho những quyết định quan trọng, lâu dài và gián tiếp thông qua những đại diện tại Ban điều hành hợp tác xã.

Nguyên tắc “phân phối lợi nhuận” theo đó, xã viên có thể được hợp tác xã chia lợi nhuận, chi phí và rủi ro trong kinh doanh công bằng theo tỷ lệ với những dịch vụ họ sử dụng.

Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về hợp tác xã song các loại hình hợp tác xã trên thế giới đều có những đặc điểm chung như: là tổ chức kinh tế do các chủ thể kinh tế tự nguyện góp vốn, góp sức hình thành; hoạt động chủ yếu nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm giúp đỡ lẫn nhau; nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã là tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ …

Ở Việt Nam, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, đến nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng hợp tác xã kiểu mới. Tháng 3/1996, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá IX đã ban hành Luật hợp tác xã để tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Kinh tế tập thể, với hợp tác xã là nòng cốt, góp phần tích cực trong việc tăng thu nhập và tạo việc làm cho thành viên và người lao động, xóa đói giảm nghèo, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

Luật hợp tác xã năm 1996 quy định khái niệm về hợp tác xã, theo đó:

Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể do cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Đến Luật hợp tác xã 2003 quy định khái niệm hợp tác xã:

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Cũng theo Luật hợp tác xã 2003 thì:

Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của hợp tác xã theo quy định của pháp luật.

Theo Luật hợp tác xã 2012 thì khái niệm này đã được thay đổi như sau:

Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.

So với Luật hợp tác xã 2003 thì Luật hợp tác xã 2012 đã làm rõ được bản chất của hợp tác xã là một tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế tập thể thành lập trên tinh thần tự nguyện, nhằm lợi ích chung của các thành viên. Luật hợp tác xã 2012 đã bỏ quy định “Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp”. Đa số ý kiến cho rằng, hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do các thành viên tự nguyện thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu chung của mình mà từng thành viên đơn lẻ không thực hiện được hoặc thực hiện kém hiệu quả hơn. Một số ít ý kiến khác cho rằng: Cần khẳng định “hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” như được quy định tại Luật hợp tác xã 2003 vì thực chất hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp đặc thù, cần được bảo đảm hoạt động bình đẳng với mọi loại hình doanh nghiệp khác và có quyền kinh doanh một số ngành nghề mà pháp luật không cấm. Đến nay, các ý kiến khác nhau về bản chất hợp tác xã khi xây dựng luật sửa đổi, bổ sung luật hợp tác xã 2012.

Có thể thấy rằng, sự ra đời và phát triển loại hình Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, có quyền hoạt động theo nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã được lý giải bởi việc đáp ứng thực hiện các quyền về con người. Theo đó, các học thuyết về tự do lập hội, bảo vệ quyền sở hữu và quyền tự do giao kết chi phối các vấn đề của hợp tác xã. Tự do họp hội được thể hiện các xã viên tự do làm việc cùng nhau trên cơ sở tự nguyện, đúng luật, tự quyết định mục đích của hợp tác xã. Bảo vệ quyền sở hữu được thể hiện thông qua quyền đóng góp tài sản của xã viên vào thành tài sản chung của hợp tác xã và vẫn giữ nguyên quyền sở hữu tư nhân đối với các hoạt động kinh doanh của cá nhân và hộ gia đình, chỉ sử dụng quy chế hợp tác xã cho những dịch vụ cụ thể hoặc để huy động tài sản của họ góp thành tài sản chung. Tự do giao kết: Các xã viên chịu các ràng buộc pháp lý trong khuôn khổ luật chung, tạo những nghĩa vụ tự bắt buộc trên cơ sở thống nhất giữa các xã viên hoặc trong điều lệ của hợp tác xã.

Đến đây, có thể khái niệm “Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể có tư cách pháp nhân, do các thành viên là cá nhân, pháp nhân tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”.

Về bản chất của hợp tác xã

Hợp tác xã là một cách để tổ chức các hoạt động kinh tế dựa trên sự tự nguyện và đoàn kết giữa các thành viên, những thành viên có điều kiện hơn giúp đỡ các thành viên yếu thế hơn và ủng hộ lẫn nhau để đạt được những lợi ích chung. Vì vậy, Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ bản chất của hợp tác xã “…do công dân góp vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh…trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi”. Qua thực tiễn, có thể nhận thấy rằng, về bản chất, hợp tác xã là tổ chức tự lực, xã viên tự xác định mục đích để cùng hoạt động, tự quyết định các quy tắc áp dụng và kiểm soát những người lãnh đạo (do bầu) một cách dân chủ.

Đến nay vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về bản chất của hợp tác xã và sự khác biệt so với bản chất của doanh nghiệp (được quy định trong Luật doanh nghiệp). Hợp tác xã có phải là một loại hình doanh nghiệp không?. Nếu không phải thì hợp tác xã khác biệt gì so với các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật Doanh nghiệp. Theo đó có hai quan điểm về bản chất của hợp tác xã.

Quan điểm thứ nhất: hợp tác xã là tổ chức kinh tế do thành viên lập ra nhằm mục đích hỗ trợ cho những hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên. Mỗi thành viên, hợp tác xã thành viên hoặc đại biểu thành viên tham dự đại hội thành viên có một phiếu biểu quyết. Phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của thành viên. Vì thế, bản chất của hợp tác xã hoàn toàn khác biệt với bản chất của doanh nghiệp.

Quan điểm thứ hai: hợp tác xã cũng có những đặc điểm như: các thành viên cùng nhau góp vốn, góp sức, nhằm thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế hoạt động của hợp tác xã như một loại hình doanh nghiệp với những đặc điểm riêng, đặc thù. Vì thế, về bản chất tương đồng với các loại hình doanh nghiệp. Cần thiết phải quy định hoạt động của hợp tác xã như một doanh nghiệp (được ghi nhận trong Luật hợp tác xã 2003, nhưng đã bỏ quy định này trong Luật hợp tác xã 2012). Việc ghi nhận sẽ bảo đảm sự bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp.

Tuy vậy, theo tác giả khi xem xét bản chất của hợp tác xã cần phải phân tích những đặc trưng của hợp tác xã so với các tổ chức kinh tế khác. Như:

Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế mang tính đối nhân. Bởi đối với hợp tác xã, nhu cầu chung và đáp ứng nhu cầu chung là cái có trước, sau đó mới tiến hành huy động vốn, nghĩa là: hợp tác xã là tổ chức đối nhân, không phải đối vốn, với mục đích đáp ứng nhu cầu thành viên, không phải kinh doanh vốn. Nói cách khác, hợp tác xã nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên bằng phương thức kinh doanh. Khác với các loại hình doanh nghiệp lấy lợi nhuận và vốn mới là mục tiêu), hợp tác xã huy động vốn (tức tài chính là cái có sau, là phương tiện) và tiến hành hoạt động kinh doanh.

Thứ hai, sự tham gia của các xã viên là hoàn toàn tự nguyện và yêu cầu phải sử dụng dịch vụ của hợp tác xã đối với xã viên. Các xã viên phải sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Chỉ khi xuất phát từ nhu cầu chung về dịch vụ và sử dụng dịch vụ của hợp tác xã thì mới có cơ sở hình thành hoạt động của hợp tác xã, tạo ra giá trị thặng dư và tương lai của hợp tác xã. Bởi hợp tác xã thể hiện tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên. Nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ giống nhau phát sinh thường xuyên, ổn định từ hoạt động sản xuất, kinh doanh, đời sống của thành viên. Đối với hợp tác xã tạo việc làm thì nhu cầu chung của thành viên là nhu cầu việc làm của thành viên do hợp tác xã tạo ra.

Thứ ba, nguyên tắc quản lý dân chủ, mỗi xã viên có một phiếu bầu như nhau. Các xã viên của hợp tác xã “có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; được cung cấp thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác về hoạt động sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối thu nhập và những nội dung khác theo quy định của điều lệ” [33, Điều 7, Khoản 3]. Như vậy, hợp tác xã quản lý theo nguyên tắc bình đẳng, thành viên có quyền ngang nhau trong việc biểu quyết các vấn đề của hợp tác xã không phụ thuộc vào phần vốn góp của mình.

Thứ tư, phân phối thu nhập của hợp tác xã. Đối với loại hình hợp tác xã, sau khi hoàn thành nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật, thu nhập của hợp tác xã được phân phối theo thứ tự: Trích các quỹ đầu tư phát triển và quỹ khác, phần thu nhập còn lại sẽ được phân phối cho thành viên theo nguyên tắc: Chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên; theo công sức lao động đóng góp của thành viên đối với hợp tác xã tạo việc làm. Phần còn lại được chia theo vốn góp. Tỷ lệ và phương thức phân phối cụ thể do điều lệ hợp tác xã.

Xuất phát từ bản chất của hợp tác xã, pháp luật về hợp tác xã cần thiết phải tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho sự ra đời và phát triển hợp tác xã, xác định rõ chức năng, quyền, địa vị pháp lý, thành viên hợp tác xã, liên đoàn hợp tác xã; quy định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của hợp tác xã đối với thành viên của mình, như: cung ứng dịch vụ, thông tin, giáo dục, ...; bảo đảm khung pháp luật cho thành viên hợp tác xã, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp tác xã.

2. Các đặc điểm và phân loại của hợp tác xã

2.1. Các đặc điểm của hợp tác xã

Hợp tác xã ra đời và phát triển được dựa trên các nguyên tắc cơ bản như là tham gia tự nguyện và mở rộng, quản lý xã viên một cách dân chủ, tham gia các thành phần kinh tế, tự chủ và độc lập, giáo dục, đào tạo và thông tin, hợp tác giữa các hợp tác xã và quan tâm tới cộng đồng. Vì thế, có thể nhận thấy những đặc điểm cơ bản và ưu thế của mô hình hợp tác xã như sau:

Thứ nhất, hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ mang tính tương trợ lẫn nhau

Các thành viên bao gồm cả cá nhân, hộ gia đình và pháp nhân. Các thành viên không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp và địa giới hành chính. Mỗi thành viên đều có những quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ như nhau trong quá trình tiếp nhận thông tin, đào tạo bồi dưỡng và các phúc lợi do hợp tác xã mang lại.

Các thành viên có nhu cầu tự nguyện cùng nhau góp vốn hoặc có thể góp sức lập ra và tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình theo quy định của pháp luật và điều lệ của hợp tác xã. Có thể thấy rằng, việc huy động vốn đầu tư phát triển của hợp tác xã từ chính nội lực là các xã viên của mình, làm lợi trở lại cho chính xã viên. Theo Tuyên bố về quy định về hợp tác xã được thông qua tại Đại hội đồng Liên minh hợp tác xã quốc tế năm 1995 thì “Hợp tác xã là các tổ chức tự nguyện và mở rộng để mọi người có thể sử dụng các dịch vụ của mình và sẵn sàng nhận các trách nhiệm xã viên mà không bị phân biệt về giới tính, xã hội, nguồn gốc, chính kiến hay tôn giáo”. Các xã viên liên kết với nhau ít nhất vì một lợi ích chung, cố gắng theo đuổi mục tiêu cải thiện điều kiện kinh tế của mình bằng cách phối kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Các thành viên vừa là chủ sở hữu, vừa là khách hàng, vừa là người lao động của hợp tác xã.

Thứ hai, các xã viên hợp tác xã vừa góp vốn vừa góp sức vào hợp tác xã và cùng hưởng lợi. Hợp tác xã tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc sau:

  1. Nguyên tắc tự nguyện: Mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của luật hợp tác xã, tán thành điều lệ hợp tác xã đều có quyền gia nhập hợp tác xã. Thành viên có quyền ra khỏi hợp tác xã theo quy định của điều lệ hợp tác xã. Nguyện vọng của họ được tôn trọng, không bị cưỡng bức, gò ép. Đây là nguyên tắc quan trọng, đảm bảo động viên được sự nhiệt tình của các đối tượng tham gia;

ii) Nguyên tắc dân chủ, bình đẳng và công khai: Thành viên hợp tác xã có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã. Những vấn đề lớn trong sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã đều phải được đại hội thành viên thảo luận dân chủ và thông qua. Các thành viên đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết theo hình thức mỗi người một phiếu bầu, giá trị mỗi phiếu như nhau, không phụ thuộc vào mức độ vốn góp… Theo Đại hội đồng Liên minh hợp tác xã quốc tế thì: Hợp tác xã là các tổ chức dân chủ được quản lý bởi các xã viên, những người tham gia tích cực vào quá trình xây dựng các chính sách và ra các quyết định. Các xã viên hợp tác xã đều có quyền bầu như nhau (mỗi xã viên một phiếu bầu) và các hợp tác xã ở các mức độ khác nhau cũng được tổ chức theo hình thức dân chủ.

iii). Nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: hợp tác xã là tổ chức kinh tế hoạt động với mục đích lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên. Trong quá trình thành lập và hoạt động, hợp tác xã có quyền được lựa chọn ngành nghề sản xuất, kinh doanh phù hợp mà pháp luật không cấm, theo ý chí và nguyện vọng của thành viên; hoàn toàn tự chủ trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và tự chịu trách nhiệm trong cơ chế thị trường.

iv). Nguyên tắc hợp tác và phát triển cộng đồng: hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, mọi hoạt động kinh tế của các thành viên tham gia với phương châm hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để vượt qua khó khăn, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của các thành viên tham gia. Trên cơ sở đó không ngừng nâng cao vai trò, tính chất xã hội của hợp tác xã để giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần tích cực thực hiện chủ trương giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng xã hội, tăng cường tình làng nghĩa xóm, đoàn kết cộng đồng.

Thứ ba, về quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối thu nhập trong hợp tác xã: Trong loại hình hợp tác xã thì sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân của thành viên được phân định rõ. Bên cạnh đó, quan hệ giữa hợp tác xã và thành viên là quan hệ bình đẳng, thỏa thuận, tự nguyện, cùng có lợi và cùng chịu rủi ro trong sản xuất, kinh doanh. Quan hệ giữa hợp tác xã và xã viên được xây dựng trên cơ sở quan hệ kinh tế trên cơ sở nhu cầu phát triển sản xuất, tăng thu nhập của thành viên hợp tác xã và trên cơ sở đó thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hợp tác xã và sự phát triển của đất nước. Hình thức phân phối thu nhập của hợp tác xã được thực hiện trên nguyên tắc công bằng, cùng có lợi, vừa theo lao động, vừa theo vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ. Việc phân phối thu nhập phải đảm bảo lợi ích của xã viên với sự phát triển của hợp tác xã, cộng đồng. Một phần lợi nhuận thu được của hợp tác xã phải được giữ lại để tái đầu tư và đầu tư mở rộng cho hợp tác xã, mua sắm trang bị những thiết bị cần thiết để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã.

Thứ tư, về quản lý nhà nước đối với loại hình hợp tác xã. Nhà nước tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã, không còn can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của hợp tác xã. Vai trò của Nhà nước trong việc quản lý đối với hợp tác xã được chuyển qua việc ban hành pháp luật và các chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã.

Thứ năm, về mục tiêu và hiệu quả hoạt động của hợp tác xã. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tập thể gồm nhiều chủ sở hữu, có vai trò quan trọng trong việc xóa đói, giảm nghèo, nâng cao thu nhập và tạo việc làm cho người dân, xây dựng nông thôn mới. Vì thế, mục đích của hợp tác xã là nhằm sử dụng tối đa các nguồn lực chung để phát triển kinh tế và hợp tác xã thuộc về toàn thể xã viên vì một mục đích rõ ràng là đáp ứng các nhu cầu chung của họ.

Thứ sáu, hợp tác xã có tư cách pháp nhân. Hợp tác xã được thành lập dưới sự tự nguyện thành lập của các sáng lập viên thông qua hội nghị thành lập hợp tác xã. Hợp tác xã có điều lệ, có tên, biểu tượng riêng của hợp tác xã, và có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi chính thức đi vào hoạt động.

Hợp tác xã cũng có cơ cấu tổ chức như cơ cấu tổ chức của một pháp nhân, cũng có cơ quan điều hành, có điều lệ theo quy định của pháp luật. Cơ cấu tổ chức của hợp tác xã, bao gồm đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên.Trong đó, đại hội thành viên là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã. Còn hội đồng quản trị hợp tác xã là cơ quan quản lý hợp tác xã do hội nghị thành lập hoặc đại hội thành viên bầu. Giám đốc (tổng giám đốc) là người điều hành hoạt động của hợp tác xã. Và Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên là cơ quan/người do đại hội thành viên bầu và kiểm soát, giám sát hoạt động của hợp tác xã.

Hợp tác xã có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Tài sản của hợp tác xã được quản lý và sử dụng theo nguyên tắc, quy định trong điều lệ, trong quy chế quản lý tài chính, và hoàn toàn độc lập với tài sản riêng của các xã viên.

2.2. Phân loại hợp tác xã

Ở Việt Nam, phân loại hợp tác xã để phục vụ cho mục đích thống kê và quản lý nhà nước đối với các loại hình hợp tác xã. Việc phân loại hợp tác xã chủ yếu dựa trên các tiêu chí theo ngành, nghề. Trường hợp hợp tác xã hoạt động trong nhiều ngành, nghề khác nhau thì hợp tác xã được phân loại theo ngành, nghề có tỷ trọng doanh thu lớn nhất. Theo đó các loại hợp tác xã phân loại theo ngành nghề gồm:

Một là, hợp tác xã nông, lâm nghiệp, làm muối.

Hai là, hợp tác xã thủy sản.

Ba là, hợp tác xã công nghiệp.

Bốn là, hợp tác xã sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước.

Năm là, hợp tác xã xây dựng.

Sáu là, hợp tác xã thương nghiệp.

Bảy là, hợp tác xã vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc.

Tám là, hợp tác xã tài chính, tín dụng.

Chín là, hợp tác xã khoa học và công nghệ.

Mười là, hợp tác xã kinh doanh bất động sản và dịch vụ tư vấn.

Mười một là, hợp tác xã giáo dục, đào tạo.

Mười hai là, hợp tác xã y tế, cứu trợ xã hội, phục vụ cá nhân và cộng đồng.

3. Sự khác nhau giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp

Hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế phổ biến từ lâu và được khuyến khích phát triển ở Việt Nam, tồn tại song hành cùng với các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam. Mô hình hợp tác xã phải đáp ứng được lợi ích thiết thực của xã viên. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ của dân, tự dân tổ chức, quản lý đáp ứng cho nhu cầu chung của mình. Vì vậy, khi so sánh sự khác biệt giữa hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp xuất phát từ địa vị pháp lý của hợp tác xã đặc biệt nhấn mạnh đến những sự khác biệt về bản chất và quy định của hợp tác xã với các loại hình doanh nghiệp.

Về mục đích

Mục đích của hợp tác xã khi thành lập và hoạt động là tối đa hóa lợi ích của thành viên như hợp tác xã là tổ chức do các thành viên tự nguyện hợp tác nhằm tương trợ lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu chung về sản phẩm, dịch vụ cho chính mình. Các xã viên vừa là chủ sở hữu vừa tham gia hợp tác xã để sử dụng dịch vụ và sản phẩm của hợp tác xã. Khi thành viên không còn nhu cầu sử dụng sản phẩm và dịch vụ của hợp tác xã trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 3 năm thì không còn duy trì tư cách thành viên; dưới góc độ hợp tác xã, hợp tác xã được hình thành để đáp ứng nhu cầu của thành viên. Điều này đi đôi với việc thành viên có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ đối với hợp tác xã. Hợp tác xã phải quan tâm tới các vấn đề xã hội như xóa đói, giảm nghèo, thực hiện bình đẳng, công bằng, tiến bộ xã hội. Đây là bản chất kinh tế rất quan trọng làm cho hợp tác xã phát triển bền vững.

Trong trường hợp, hợp tác xã cung ứng sản phẩm dịch vụ cho khách hàng không phải thành viên do điều lệ hợp tác xã quy định cụ thể nhưng không vượt quá mức: Không quá 50% tổng giá trị cung ứng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã đối với lĩnh vực nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đối với trường hợp hợp tác xã tạo việc làm, tiền lương trả cho người lao động không phải là thành viên với hợp đồng lao động không xác định thời hạn không quá 30% tổng tiền lương của hợp tác xã chi trả cho tất cả người lao động trong hợp tác xã với hợp đồng không xác định thời hạn.

Trong khi đó, mục đích của công ty là cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho thị trường đại chúng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp và mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận cho các chủ sở hữu.

Về tư cách của thành viên

Các xã viên vừa có tư cách là chủ sở hữu của hợp tác xã, vừa có tư cách là sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, theo đó thành viên có nghĩa vụ “sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ” [33, Điều 15, Khoản 1]. Trong khi đói đối với doanh nghiệp, các thành viên hoặc cổ đông có tư cách là các nhà đầu tư.

Về quyền biểu quyết của thành viên.

Các xã viên của hợp tác xã “có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp trong việc quyết định tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã” [33, Điều 7, Khoản 3]. Trong biểu quyết trong đại hội thành viên của hợp tác xã thì “Mỗi thành viên… có một phiếu biểu quyết. Phiếu biểu quyết có giá trị ngang nhau, không phụ thuộc vào số vốn góp hay chức vụ của thành viên” [33, Điều 34, Khoản 3]. Như vậy, hợp tác xã quản lý theo nguyên tắc bình đẳng, các thành viên có quyền ngang nhau trong việc biểu quyết các vấn đề của hợp tác xã không phụ thuộc vào phần vốn góp của mình giống như trong các loại hình doanh nghiệp.

Về quan hệ sở hữu

Các thành viên của hợp tác xã là các đồng sở hữu hợp tác xã trên nguyên tắc bình đẳng và với mục đích chính là sử dụng dịch vụ của hợp tác xã (thành viên vừa là người quản lý hợp tác xã, vừa là người sử dụng dịch vụ của hợp tác xã). Mức vốn góp tối đa của thành viên không quá % nhất định của vốn điều lệ. Các thành viên thực hiện vai trò làm chủ của mình bằng cách tham gia vào quá trình ra quyết định; thông qua Đại hội thành viên, có quyền bình đẳng, biểu quyết ngang nhau không phụ thuộc vốn góp. Tài sản không chia của hợp tác xã mang tính chất bất khả chuyển nhượng nhằm bảo đảm sự tồn tại liên tục của hợp tác xã và chống lại bất cứ sự mua bán cơ hội nào. Điều này có nghĩa là khi nào hợp tác xã còn đủ điều kiện để hoạt động thì không ai có thể bán hay chuyển nhượng hợp tác xã được. Tuy vậy, khi thực hiện tổ chức lại hợp tác xã thì tài sản không chia sẽ được xử lý như thế nào thì chưa có hướng dẫn chi tiết, cụ thể.

Ngược lại, ở các loại hình doanh nghiệp, tất cả tài sản thuộc về chủ sở hữu và được quyền mua bán, chuyển nhượng phần vốn góp hoặc cổ phần.

Về quyền quản lý

Quyền biểu quyết ngang nhau của xã viên hợp tác xã: Mỗi xã viên chỉ có quyền có một phiếu bầu, bất kể số vốn xã viên đóng góp. Trong khi các loại hình công ty thì quyền biểu quyết được quyết định bởi phần vốn góp (hoặc số cổ phần sở hữu) của thành viên hoặc cổ đông trong công ty.

Trong các loại hình công ty thì lợi nhuận được phân phối ở dạng chia theo tỷ lệ vốn góp (lợi tức cổ phần trong loại hình công ty cổ phần) hoặc tái đầu tư lại trong công ty

Về phân phối thu nhập

Thặng dư được trích lập các quỹ của hợp tác xã, phân phối cho các thành viên tỷ lệ theo vốn góp, mức độ từng xã viên giao dịch kinh tế với hợp tác xã (mức sử dụng dịch vụ của hợp tác xã), công sức đóng góp của xã viên. Các thành viên giao dịch nhiều, hưởng lợi nhiều theo nguyên tắc công bằng. Thu nhập của hợp tác xã được phân phối chủ yếu theo mức độ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của thành viên, hợp tác xã thành viên. Nguyên tắc này được áp dụng nhằm tránh hiện tượng đề cao tính lợi nhuận và làm xói mòn tinh thần hợp tác, thành viên cùng góp vốn, cùng sử dụng dịch vụ, cùng chia sẻ chi phí, cùng chịu trách nhiệm và cùng hưởng lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã. Điều này góp phần gia tăng mức độ trung thành của thành viên với hợp tác xã và là tiền đề để hợp tác xã phát triển bền vững.

Có thể nói, mặc dù có một số đặc điểm giống nhau, nhưng hợp tác xã và doanh nghiệp là hai loại hình tổ chức có bản chất pháp lý khác nhau, được điều chỉnh bởi các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau với những bản chất khác nhau, cần tránh sự nhầm lẫn mô hình HTX với mô hình doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp.

Thành lập hợp tác xã

Trước khi hoạt động, hợp tác xã đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính. Quá trình thành lập của hợp tác xã có thể được khái quát thành các bước như sau:

Bước 1: Phân tích, đánh giá nhu cầu hợp tác

Các vấn đề được phân tích, đánh giá nhằm định hướng phát triển cho hợp tác xã và giải quyết tốt hơn những vấn đề trong cộng đồng địa phương. Bao gồm: Đối tượng cần hợp tác; Điều kiện sản xuất kinh doanh, lợi thế và mối quan tâm của địa phương; Các thuận lợi, khó khăn trong hoạt động của hợp tác xã.

Các thành viên không phải là một nhóm đồng nhất. Mỗi thành viên là một chủ thể. Nhu cầu của nông dân về các dịch vụ được xác định bởi các sinh kế và các chiến lược sinh kế của họ. Nông dân có các nguồn lực khác nhau.

Bước 2: Các sáng lập của hợp tác xã và công tác vận động

Sáng lập viên có vai trò đặc biệt quan trọng đối với hợp tác xã, là cá nhân, hộ gia đình hoặc pháp nhân khởi xướng việc thành lập hợp tác xã và tham gia hợp tác xã. Sáng lập viên phải là người có ý tưởng hình thành việc hợp tác, có hiểu biết về pháp luật và cách thức tổ chức hợp tác xã, có nhiệt tình, uy tín, khả năng, hiểu biết về những vấn đề mà hợp tác xã dự định sản xuất kinh doanh dịch vụ, có khả năng đề xướng các chương trình và lập kế hoạch hoạt động của hợp tác xã.

Sáng lập viên báo cáo bằng văn bản với UBND cấp xã nơi dự định đặt trụ sở chính của hợp tác xã về việc thành lập, địa điểm đóng trụ sở, phương hướng sản xuất, kinh doanh và kế hoạch hoạt động của hợp tác xã. Sáng lập viên tiến hành tuyên truyền, vận động các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân khác có nhu cầu tham gia hợp tác xã.

Sáng lập viên xây dựng điều lệ và dự thảo phương hướng sản xuất kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã. Xác lập danh sách những người có nhu cầu tham gia hợp tác xã và Lấy ý kiến đóng góp về dự thảo Điều lệ và Phương hướng sản xuất kinh doanh dịch vụ của hợp tác xã. Đồng thời, họp bàn cơ cấu tổ chức hợp tác xã, đề cử các chức danh Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Trưởng Ban Kiểm soát hoặc kiểm soát viên.

Bước 3: Tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã

Hội nghị thành lập hợp tác xã do sáng lập viên tổ chức. Hội nghị thành lập hợp tác xã là Hội nghị đầu tiên quyết định việc thành lập hợp tác xã. Hội nghị bao gồm các sáng lập viên là cá nhân, người đại diện hợp pháp của sáng lập viên; người đại diện hợp pháp của hộ gia đình, pháp nhân và cá nhân khác có nguyện vọng gia nhập hợp tác xã. Đồng thời, các khách mời là các đại diện Đảng ủy, Ủy ban nhân dân xã, huyện, đại diện sở, phòng, ban chức năng, Liên minh hợp tác xã tỉnh.

Nội dung chính của hội nghị thành lập gồm: Thông qua dự thảo Điều lệ; Thông qua Phương án sản xuất kinh và danh sách thành viên. Bầu cử hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, trưởng ban kiểm soát. Thông qua nghị quyết hội nghị thành lập hợp tác xã.

Bước 4: Đăng ký thành lập hợp tác xã tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền

Việc đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý bắt buộc đối với hợp tác xã. Chỉ thông qua việc đăng ký kinh doanh, hợp tác xã mới có đủ điều kiện hoạt động đó là tư cách pháp nhân. Khi thành lập hợp tác xã, hợp tác xã gửi tới cơ quan đăng ký hợp tác xã nơi hợp tác xã dự định đặt trụ sở chính bộ hồ sơ đăng ký thành lập hợp tác xã theo quy định của pháp luật. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ sơ.

Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, có quyền hoạt động theo nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký, hợp tác xã được khắc dấu và có quyền sử dụng con dấu của mình.

Tổ chức quản lý của hợp tác xã

Cơ cấu tổ chức quản lý của Hợp tác xã bao gồm: Đại hội thành viên; Hội đồng quản trị; Ban giám đốc và Ban kiểm soát

Đại hội thành viên hợp tác xã: Đại hội thành viên là cơ quan có quyền quyết định cao nhất của hợp tác xã. Đại hội thành viên gồm đại hội thành viên thường niên và đại hội thành viên bất thường. Đại hội thành viên được tổ chức dưới hình thức đại hội toàn thể hoặc đại hội đại biểu.

Đại hội thành viên thường niên phải được họp trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày kết thúc năm tài chính do hội đồng quản trị triệu tập.

Đại hội thành viên bất thường do hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên hoặc thành viên đại diện của ít nhất một phần ba tổng số thành viên, hợp tác xã thành viên triệu tập theo quy định.

Hội đồng quản trị hợp tác xã: Hội đồng quản trị hợp tác xã là cơ quan quản lý hợp tác xã do hội nghị thành lập hoặc đại hội thành viên bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo thể thức bỏ phiếu kín. Hội đồng quản trị gồm chủ tịch và thành viên, số lượng thành viên hội đồng quản trị do điều lệ quy định nhưng tối thiểu là 03 người, tối đa là 15 người. Nhiệm kỳ của hội đồng quản trị hợp tác xã do điều lệ hợp tác xã quy định nhưng tối thiểu là 02 năm, tối đa là 05 năm.

Hội đồng quản trị hợp tác xã họp định kỳ theo quy định của điều lệ nhưng ít nhất 03 tháng một lần do chủ tịch hội đồng quản trị hoặc thành viên hội đồng quản trị được chủ tịch hội đồng quản trị ủy quyền triệu tập. Hội đồng quản trị họp bất thường khi có yêu cầu của ít nhất một phần ba tổng số thành viên hội đồng quản trị hoặc chủ tịch hội đồng quản trị, trưởng ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã.

Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã và có quyền hạn, nghĩa vụ lập chương trình, kế hoạch hoạt động của hội đồng quản trị và phân công nhiệm vụ cho các thành viên hội đồng quản trị. Chuẩn bị nội dung, chương trình, triệu tập và chủ trì cuộc họp của hội đồng quản trị, đại hội thành viên trừ trường hợp Luật hợp tác xã 2012 hoặc điều lệ có quy định khác. Chịu trách nhiệm trước đại hội thành viên và hội đồng quản trị về nhiệm vụ được giao. Ký văn bản của hội đồng quản trị theo quy định của pháp luật và điều lệ.

Giám đốc (Tổng Giám đốc) hợp tác xã: Là người điều hành hoạt động của hợp tác xã. Giám đốc (tổng giám đốc) có quyền hạn và nhiệm vụ sau đây: Tổ chức thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã; Thực hiện nghị quyết của đại hội thành viên, quyết định của hội đồng quản trị; Ký kết hợp đồng nhân danh hợp tác xã theo ủy quyền của chủ tịch hội đồng quản trị; Trình hội đồng quản trị báo cáo tài chính hằng năm; Xây dựng phương án tổ chức bộ phận giúp việc, đơn vị trực thuộc của hợp tác xã trình hội đồng quản trị quyết định; Tuyển dụng lao động theo quyết định của hội đồng quản trị; Thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ khác được quy định tại điều lệ, quy chế của hợp tác xã.

Trường hợp giám đốc (tổng giám đốc) do hợp tác xã thuê thì ngoài việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ quy định nêu trên còn phải thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ theo hợp đồng lao động và có thể được mời tham gia cuộc họp đại hội thành viên, hội đồng quản trị.

Ban Kiểm soát: Hợp tác xã có từ 30 thành viên trở lên phải bầu ban kiểm soát. Đối với hợp tác xã có dưới 30 thành viên việc thành lập ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên do điều lệ quy định.

Ban kiểm soát, kiểm soát viên hoạt động độc lập, kiểm tra và giám sát hoạt động của hợp tác xã theo quy định của pháp luật và điều lệ. Ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên do đại hội thành viên bầu trực tiếp trong số thành viên, đại diện hợp tác xã thành viên theo thể thức bỏ phiếu kín. Số lượng thành viên ban kiểm soát do đại hội thành viên quyết định nhưng không quá 07 người. Nhiệm kỳ của ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên theo nhiệm kỳ của hội đồng quản trị.

Luật hợp tác xã 2023 áp dụng khi nào?

Luật Hợp tác xã năm 2023 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2024.

Hợp tác xã La Gi 2023?

Hợp tác xã là tổ chức có tư cách pháp nhân do ít nhất 05 thành viên chính thức tự nguyện thành lập, hợp tác tương trợ trong sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung về kinh tế, văn hóa, xã hội của thành viên, góp phần xây dựng cộng đồng xã hội phát triển bền vững; thực hiện quản trị tự chủ, tự chịu ...

Ai có thể trở thành thành viên của hợp tác xã?

Căn cứ theo Điều 30 Luật Hợp tác xã 2023 quy định điều kiện trở thành thành viên hợp tác xã như sau:- Thành viên chính thức, thành viên liên kết góp vốn của hợp tác xã bao gồm: + Cá nhân là công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; + Cá nhân là nhà đầu tư nước ngoài có giấy chứng nhận ...

Liên hiệp hợp tác xã Việt Nam là gì?

Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong ...