Sáng kiến kinh nghiệm của hiệu trưởng THCS

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1.Tên Sáng kiến: Một số biện pháp của hiệu trưởng trong công tác chỉ đạo GV CN lớp trong trường THCS. 2. Lĩnh vực áp dụng kinh nghiệm: Quản lí giáo dục. 3.Tác giả: Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Thủy Ngày tháng/năm sinh: 24/10/1976 Chức vụ, đơn vị công tác, điện thoại: Hiệu trưởng trường THCS Văn Đức. 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến kinh nghiệm: Họ và tên: Nguyễn Thị Thu Thủy Tên đơn vị: Trường THCS Văn Đức Địa chỉ: Khê Khẩu – Văn Đức – Chí Linh – Hải Dương. Điện thoại: 03203930489 5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng kinh nghiệm: Hiệu trưởng xây dựng được kế hoạch hoạt động từ đầu năm học, triển khai tới các bộ phận, các GVCN và có yêu cầu cụ thể về việc triển khai, kiểm tra đánh giá mức độ hoàn thành trong từng thời điểm của mỗi bộ phận, mỗi cá nhân. GVCN phải có năng lực quản lý, điều hành các hoạt động của lớp. Phải có sự vào cuộc, phối hợp chặt chẽ của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường đặc biệt là tổ CN. Nhà trường phải có đủ những điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy, học tập của thầy và trò, phục vụ cho các hoạt động sinh hoạt tập thể, HĐGDNG lên lớp, có sự quan tâm lãnh đạo của các cấp chính quyền địa phương và của ngành giáo dục. 6. Thời gian áp dụng kinh nghiệm tại nhà trường lần đầu: tháng 8/2013 HỌ TÊN TÁC GIẢ ( Kí và ghi rõ họ tên) XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN 1 TÓM TẮT SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến. Trong đổi mới giáo dục hiện nay, vai trò của GVCN đặc biệt quan trọng. Để làm tốt công tác này phải có sự chỉ đạo sâu sát của lãnh đạo nhà trường. Là hiệu trưởng, qua thực tế công tác, tôi nhận thấy các biện pháp quản lí của hiệu trưởng chủ yếu vẫn là các biện pháp hành chính ít sáng tạo nên chưa kích thích được tính tích cực, lòng nhiệt tình, trách nhiệm của GVCNL. Hơn nữa sự hiểu biết sâu sắc về các nội dung quản lí hoạt động công tác GVCN, các yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý GVCN của hiệu trưởng còn hạn chế. Vậy làm như thế nào để nâng cao được chất lượng đội ngũ GVCN, để GVCN là nhân tố quyết định hiệu quả giáo dục, tôi đã thực hiện một số giải pháp chỉ đạo quản lí GVCN lớp trường THCS. 2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến. Với mong muốn chỉ đạo, quản lý đội ngũ GVCNL nhằm nâng cao được vai trò của họ trong việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tôi đã mạnh dạn lựa chọn: “Một số biện pháp của hiệu trưởng trong công tác chỉ đạo GVCNL trong nhà trường THCS”. Để nghiên cứu và thực hiện sáng kiến từ thời điểm 8/2013 đến 02/2015 tại trường THCS tôi công tác cần có những điều kiện sau: Hiệu trưởng phải nắm vững các văn bản quy định về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của GVCNL, hiểu sâu sắc vai trò của GVCNL, nắm năng lực chuyên môn, nghiệp vụ GVCN, nắm vững tình hình HS. Phải có sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. GVCN phải được hướng dẫn cách xây dựng KH thực hiện công tác CN, được quan tâm, tạo động lực xây dựng KH. 3. Nội dung sáng kiến. Trong sáng kiến, tôi đã chỉ ra thực trạng còn tồn tại, trên cơ sở đó xây dựng và đề xuất 4 biện pháp của hiệu trưởng trong công tác chỉ đạo GVCN lớp trong trường THCS. Tôi chọn lựa nội dung này vì đó là nội dung chưa được các nhà quản lí quan tâm đúng mức. Các biện pháp tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo. Vì từ thực tế quản lí, tôi chưa được đào tạo chuyên sâu, cơ bản về vấn đề 2 này. Tôi dành thời gian lựa chọn, xác định nội dung, biện pháp chỉ đạo GVCN. Từ đó lựa chọn biện pháp phù hợp với thực tế nhà trường. Với những biện pháp này, có khả năng áp dụng và triển khai rộng rãi ở tất cả các trường THCS. Với tùy từng điều kiện nhà trường, tùy khả năng của hiệu trưởng mà mức độ áp dụng sẽ có sự khác nhau. Trong mỗi biện pháp, tôi đều trình bày rất chi tiết cách áp dụng sáng kiến giúp người thực hiện có thể áp dụng dễ dàng. Để chỉ đạo tốt công tác quản lí GVCN điều đầu tiên hiệu trưởng phải có giải pháp nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của GVCN, quản lí GVCNL thông qua việc xây dựng kế hoạch(KH) CN lớp chi tiết về mục tiêu chất lượng, nội dung, thời gian hoạt động, phân công người chịu trách nhiệm và dự kiến sản phẩm. Khi có KH phân công từng công việc đến từng GV thực hiện về thời gian hoàn thành, chất lượng có kiểm tra, đánh giá tiến độ công việc, phát hiện sai lệch, tìm nguyên nhân để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời và tổng kết rút kinh nghiệm theo kỳ, năm (biện pháp1). Để phát huy hiệu quả hiệu trưởng cần bồi dưỡng năng lực làm GVCN cho GVCN lớp(Biện pháp 2). Để công tác đổi mới quản lý, chỉ đạo đạt hiệu quả cần tăng cường kiểm tra GVCN lớp thông qua các nội dung và bằng những hình thức cụ thể ở biện pháp3. Ngoài ra cần xây dựng quy chế phối hợp giữa GVCN lớp với các lực lượng giáo dục tạo được sự đồng thuận, đoàn kết nhằm phát huy tối đa mọi nguồn lực (Biện pháp 4). 4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến. Qua thời gian thực hiện, tôi thấy năng lực, phương pháp, kĩ năng thực hiện công tác CN lớp của GV nhà trường được nâng cao, đáp ứng đúng vai trò là cầu nối giữa BGH các tổ chức đoàn thể và GV bộ môn của lớp với HS. GVCN gắn bó với HS. Kỉ cương nề nếp của HS được xây dựng, hạn chế HS cá biệt, tỉ lệ HS có hạnh kiểm khá và tốt tăng. Đặc biệt là kết quả của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” được đánh giá cao. 5. Đề xuất, kiến nghị để thực hiện hoặc mở rộng sáng kiến. Tăng thêm số tiết định mức công tác CN lớp cho cấp THCS. Tổ chức thi GVCN giỏi các cấp, bồi dưỡng, tập huấn, hội thảo về công tác CN lớp ở các cấp. 3 MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến Trong các nhà trường, đội ngũ GV có vai trò quyết định chất lượng giáo dục. Chất lượng GV tốt thì chất lượng giáo dục mới tốt. Một nhà trường có nhiều GV giỏi thì mới có nhiều lớp đạt chất lượng cao. Qua quá trình quản lí chỉ đạo, tôi thấy đội ngũ GVCN trong trường THCS là nhân tố quyết định hiệu quả giáo dục của nhà trường. Muốn có chất lượng giáo dục toàn diện tốt thì phải có đội ngũ GV cốt cán giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, giỏi về công tác CN lớp, giỏi về chỉ đạo hoạt động Đoàn, Đội. Nhà trường có đội ngũ cốt cán giỏi, nhưng điều hành như thế nào để họ tận tâm với nghề, có trách nhiệm cao trong tập thể, phối hợp nhịp nhàng, đồng thuận vì mục tiêu chung của trường lại là trách nhiệm của các nhà quản lý đặc biệt là vai trò của hiệu trưởng nhà trường. Từ kết quả giáo dục của nhà trường trong những năm gần đây, tôi thấy có những mâu thuẫn, những bất cập mặc dù chất lượng đầu vào của HS như nhau nhưng sau khi kết thúc năm học chất lượng giáo dục mọi mặt ở các lớp trong cùng khối lại khác nhau. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến những mẫu thuẫn và bất cập đó là do năng lực của GVCN lớp còn hạn chế vì họ chưa được đào tạo một cách chuyên sâu. Hơn nữa nhận thức về vị trí vai trò của công tác CN lớp của GV và cán bộ quản lí chưa được đúng tầm. Việc quản lí đội ngũ GVCN lớp của hiệu trưởng chưa thật sự khoa học. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lí toàn diện nhà trường đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ GVCN giỏi làm lực lượng nòng cốt. Vậy làm như thế nào để xây dựng được đội ngũ GVCN lớp là trách nhiệm của người hiệu trưởng. Trong quá trình quản lí chỉ đạo tại nhà trường, tôi nhận thấy các biện pháp quản lí của hiệu trưởng chủ yếu vẫn là các biện pháp hành chính ít sáng tạo nên chưa kích thích được tính tích cực, lòng nhiệt tình, trách nhiệm của GVCN lớp. Hơn nữa sự hiểu biết sâu sắc về các nội dung quản lí hoạt động công tác GVCN, các yếu tố ảnh hưởng tới công tác quản lý công tác CN 4 của hiệu trưởng còn hạn chế. Từ những lí do trên tôi đã thực hiện “một số giải pháp trong công tác chỉ đạo GVCNL trong trường THCS” nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ GVCN lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế , giáo dục và đào tạo trở thành nền tảng của sự phát triển khoa học công nghệ, tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng sự phát triển của xã hội và đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển thế hệ tương lai. Lớp học là một đơn vị tổ chức cấu thành nên một cơ sở giáo dục, một nhà trường, không có lớp học thì không thể có nhà trường. Một cơ sở giáo dục, một nhà trường vững mạnh, chất lượng phải trên nền tảng các lớp học chất lượng, vững mạnh toàn diện , ở đó mỗi HS phải chăm ngoan, đoàn kết, thân thiện, cố gắng , tích cực học tập , rèn luyện tu dưỡng theo yêu cầu chương trình cấp học. Chất lượng đạo đức, tri thức văn hoá của mỗi HS chỉ có được khi GV, nhất là GV CN, và nhà trường có biện pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp, hiệu quả tác động đến từng HS, từng lớp học trong nhà trường. Từ trước đến nay công tác CN và xây dựng phong trào lớp học có một vị trí vai trò quan trọng trong việc xây dựng nề nếp, giáo dục HS, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện trong nhà trường. Đến nay nó càng có ý nghĩa và trò quan trong quyết định hơn trong việc thực hiện phong trào xây dựng " Trường học thân thiện - HS tích cực". Vì thế người quản lí giáo dục nhà trường cần phải đổi mới cách nhìn nhận đánh giá và hơn nữa đó là đối mới việc chỉ đạo công tác CN và xây dựng lớp học, để nó đáp ứng được chức năng nhiệm vụ trong việc xây dựng nề nếp, giáo dục đạo đức , nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện , làm tốt phòng trào xây dựng " Trường học thân thiện, HS tích cực". Trong trường THCS, đội ngũ GV quyết định chất lượng giáo dục của nhà trường. Ngoài việc giảng dạy GV phải kiêm nghiệm công tác CN. GVCN lớp có 5 vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác giáo dục của nhà trường. Họ thay mặt hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện HS của một lớp học, là cố vấn cho các hoạt động tự quản của HS, là người phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Họ là một thành viên quan trọng trong mạng lưới thông tin của nhà trường. Những thông tin này giúp hiệu trưởng nắm được tình hình thực hiện kế hoạch và các thông tin khác để có những quyết định đúng đắn và chính xác. 3. Thực trạng của vấn đề. 3.1. Thuận lợi: Hiện nay chất lượng giáo dục của tỉnh nói chung của thị xã nói riêng có nhiều khởi sắc cả về chất lượng mũi nhọn và chất lượng đại trà. Nhiều năm liền tỉnh và thị xã được xếp ở tốp đầu cả nước và tỉnh về chất lượng GV giỏi, HS giỏi, HS đỗ vào đại học, vào THPT công lập. Ý thức đạo đức của HS có chuyển biến tích cực. Thực tế cho thấy những năm qua công tác giáo dục nói chung và công tác CN lớp và quản lý đội ngũ CN lớp của các nhà trường THCS nói riêng đã có những tiến bộ và có hiệu quả. Đội ngũ GVCN đa số có nhiều kinh nghiệm, có tay nghề vững vàng và tinh thần trách nhiệm cao, tích cực đổi mới phương pháp, yêu nghề, tâm huyết với nghề, có uy tín trong phụ huynh và HS. Phần lớn HS có ý thức kỷ luật, chấp hành tốt nội quy, kỷ luật của trường có tinh thần cầu tiến, tích cực học tập và hăng hái tham gia các hoạt động tập thể… Đa số các CBQL, GV đều cho rằng công tác GVCN có vai trò quan trọng, có ảnh hưởng lớn đối với kết quả học tập văn hóa và rèn luyện đạo đức của HS. 3.2. Khó khăn. Bên cạnh những mặt mạnh vẫn còn có hạn chế. Một số GV trẻ mới ra trường chưa chuẩn bị tốt kiến thức, kĩ năng làm công tác GVCN lớp nên trong thực tế công tác nhiều thầy cô còn lúng túng, khó khăn. Cá biệt còn có một số GVCN tinh thần trách nhiệm chưa cao, thiếu sự quan tâm, giáo dục HS. GV lớn tuổi có kinh nghiệm quản lý lớp tốt nhưng phương pháp không phù hợp với những hoạt động đổi mới trong sinh hoạt và hoạt động tập thể hiện nay. 6 GV trẻ có nhiều hình thức đổi mới trong hoạt động sinh hoạt tập thể nhưng thiếu kinh nghiệm quản lý, chưa nghiêm khắc với HS nên hiệu quả giáo dục đạo đức HS chưa cao. Còn khá nhiều HS thiếu ý thức trong việc chấp hành nội quy, kỷ luật, thiếu chuyên cần, hổng kiến thức. Mối quan hệ giữa GVCNL với HS và gia đình HS vẫn còn khoảng cách, đa phần các em vẫn chưa gần gũi, chưa thực sự tin tưởng vào GVCN. Trong các biện pháp liên lạc với phụ huynh HS như: GVCN gọi điện thoại đến nhà thường xuyên, gửi giấy báo cho phụ huynh, đến tận nhà HS hoặc mời phụ huynh HS đến trường còn chưa nhiều, không thường xuyên. Điều đó cho thấy mối quan hệ giữa GVCN và phụ huynh HS chưa thực sự gắn kết chặt chẽ. Sự phối kết hợp giữa GVCN với gia đình HS chưa thường xuyên, chưa thống nhất cao trong việc giáo dục HS. Việc liên lạc chủ yếu khi HS có vi phạm về đạo đức, vi phạm về nội qui học tập. Việc quản lý công tác CN lớp của hiệu trưởng cũng chưa có một quy trình khoa học, công tác chỉ đạo GVCN lớp còn chưa thực sự chủ động. Việc xây dựng kế hoạch hoạt động của GVCN trong năm học chưa khả thi. Nội dung họp của tổ CN đôi khi còn mang tính hình thức hiệu quả không cao. Tổ CN chưa xây dựng được quy chế để hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. Việc động viên khen thưởng cho GVCN làm công tác CN lớp tốt còn ít hoặc chưa kịp thời. Đặc biệt là công tác quản lý của hiệu trưởng các nhà trường còn mang tính hình thức, nặng về hồ sơ sổ sách, ít đi vào thực chất. Thậm chí có trường còn xem nhẹ công tác CN lớp. Vì vậy, hiện nay tình trạng ý thức đạo đức xuống cấp của một số HS các trường THCS ngày càng nhiều. Cá biệt có HS sa vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trò chơi trực tuyến, truy cập nhưng thông tin không lành mạnh trên mạng Iternet. Những mặt trái trong xã hội đã bắt đầu len lỏi vào trường học. Mặt khác do áp lực thi cử nên cán bộ quản lý, GV và HS chủ yếu trú trọng đến hoạt động dạy và học trên lớp nên công tác CN lớp cũng chưa thật sự được cán bộ quản lý các nhà trường quan tâm đúng mức. Trong kiểm tra nội bộ, đánh giá xếp loại GV... rất ít các cấp quản lí đưa nội dung công tác CN và xây dựng lớp để kiểm tra, đánh giá 7 GV, cũng như vậy hàng năm chưa có cuộc thi nào cho GVCN giỏi. GVCN giỏi chưa được tôn vinh, chưa được đánh giá đúng tầm và công sức họ bỏ ra. Để khắc phục tình trạng này và đặc biệt là để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp giáo dục và Đào tạo, tôi đã tiến hành chỉ đạo đổi mới phương pháp quản lý, chỉ đạo công tác CN lớp bằng các biện pháp tích cực, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVCN lớp góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho HS nói riêng và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường nói chung. 3.3. Điều tra thực trạng. Để tiến hành “Một số biện pháp của hiệu trưởng trong công tác chỉ đạo GV CN lớp trong nhà trường THCS” đạt kết quả tốt, tôi đã thực hiện các biện pháp khảo sát ở trường tôi phụ trách ở thời điểm ( tháng 8/2013) và kết quả như sau: Bảng 1: Kết quả khảo sát về nhận thức của GV: Hiểu nhưng chưa đầy Không hiểu về vai trò, đủ về vai trò, tầm tầm quan trong của quan trong của công Số GV công tác CN lớp tác CN lớp SL % SL % SL % 10 0 0 10 100 0 0 Từ kết quả trên cho thấy số GV hiểu sâu sắc về vai trò, tầm quan trong của công Hiểu sâu sắc về vai trò, tầm quan trong của công tác CN lớp tác CN lớp chiếm tỷ lệ rất thấp là 0%, GV còn chưa thực sự hiểu sâu sắc về vai trò, tầm quan trong của công tác CN lớp là 10 GV chiếm tỷ lệ 100%. Qua đó, ta thấy GV còn chưa có nhận thức đầy đủ và sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của công tác CN lớp dẫn đến công tác CN lớp chưa mang lại hiệu quả cao. Bảng 2: Kết quả khảo sát về thực hiện công tác CN lớp của đội ngũ GVCN lớp: Đánh giá Kỹ năng Mối quan hệ Lập kế Tìm hiểu Giáo kết quả kinh giữa GVCN Số GV: 12 hoạch phân loại dục HS GD của nghiệm với HS và công tác HS cá biệt HS CN phụ huynh Tốt 2 3 8 4 5 1 Khá 3 4 2 4 3 4 T.b 5 3 0 2 2 4 Yếu 0 0 0 0 0 0 8 Qua bảng khảo sát cho thấy đội ngũ GVCN lớp kỹ năng, kinh nghiệm làm công tác CN còn lúng túng. Việc giáo dục HS cá biệt kết quả chưa cao. Mối quan hệ giữa GVCN với HS vẫn còn khoảng cách, chưa gần gũi, chưa thực sự tin tưởng vào GVCN. Sự phối kết hợp giữa GVCN với gia đình HS chưa thường xuyên, chưa thống nhất cao trong việc giáo dục HS, chủ yếu khi HS có vi phạm về đạo đức, vi phạm về nội qui học tập GVCN mới liên hệ với cha(mẹ) HS. Bảng 3: Kết quả dự giờ tiết sinh hoạt, tiết tổ chức HĐGDNGLL của GVCN lớp. HS sôi nổi, đạt hiệu HS chưa hứng thú, quả cao hiệu quả hạn chế Số GV SL % SL % SL % 5 10 100 3 30 7 70 Với kết quả trên, cho thấy số tiết có hiệu quả gây được hứng thú cho HS chiếm tỷ Tổng số giờ dự lệ khá thấp: 3 tiết. Bên cạnh đó số tiết HS chưa hứng thú, chưa sôi nổi, hiệu quả chưa cao chiếm tỷ lệ khá cao 70% gấp hơn 2 lần số tiết HS hứng thú, sôi nổi. Từ kết quả, cho thấy đa số GVCN chưa biết cách tổ chức hoạt động NGLL và sinh hoạt lớp có hiệu quả. Nội dung và hình thức các tiết đã số dừng lại ở mặt hình thức chưa mang lại hiệu quả giáo dục cao, chưa cuốn hút được HS tham gia trải nghiệm sáng tạo vào trong các hoạt động . Qua quá trình điều tra tại nhà trường tôi nắm được một số nguyên nhân sau: - GV gặp khó khăn trong việc xây dựng kế hoạch CN. GV chưa có nhận thức thật sự sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của công tác CN lớp, chưa đổi mới được hình thức, nội dung các tiết sinh hoạt, tiết HĐGDNGLL phù hợp với tâm lí lứa tuổi. GV khó khăn trong việc tìm hình ảnh, phim tư liệu và các tài liệu tham khảo khác trên Internet có nội dung phù hợp để đưa vào các hoạt động NGLL. Công tác CN lớp lâu nay chỉ được coi là nhiệm vụ kiêm nhiệm. Nhiều GV chỉ chú tâm vào bồi dưỡng chuyên môn giảng dạy theo bộ môn, chưa hoặc không quan tâm bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ công tác CN lớp. -Việc phân công CN cũng có vấn đề bất cập. Năm nay GV được phân công làm CN, năm sau có thể làm có thể không làm CN lớp, nên GV không coi việc bồi 9 dưỡng nghiệp vụ công tác CN lớp là việc bồi dưỡng thường xuyên nên nhiều GV làm công tác CN lớp mà không nắm vững: vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, biện pháp... của người GVCNL, thiếu quan tâm hoặc quan tâm nhưng thiếu biện pháp xây dựng lớp trở thành một tập thể vững mạnh. Trong quá trình quản lí tổ chức lớp do thiếu nghiệp vụ về công tác CN lớp, thiếu tình cảm, trách nhiệm nên tỏ thái độ không đúng mức với tập thể lớp, thường mệnh lệnh, thiếu dân chủ, chưa tôn trọng HS, áp dụng hình thức trách phạt nhiều hơn giáo dục hướng dẫn, chỉ bảo và động viên HS nên đã đẩy các em sang một thái cực bất lợi cho mình đó là luôn đối đầu với tập thể lớp mà không xây dựng được quan hệ thân thiện. Bảng 4: Kết quả khảo sát trên HS: Sôi nổi, rất hứng Hứng thú Không hứng thú Lớp thú Số HS SL % SL % SL % 6A 39 11 28.2 25 64.1 4 7.7 7B 38 12 31.6 20 52.6 6 15.8 8C 36 9 25.0 24 66.7 3 8.3 9A 34 7 20.6 25 73.5 2 5.9 Tổng 147 39 26.5 93 63.3 15 10.2 Kết quả trên cho thấy số HS sôi nổi hứng thú là 39 chiếm 26.5%, hứng thú là 93 chiếm 63.3%, không hứng thú là 15 chiếm 10.2 %. Đa số HS đã hứng thú với các hoạt động của GVCN nhưng số HS có tâm lý sôi nổi và thật sự hứng thú với hoạt động của GV chưa nhiều. Ngoài ra qua quá trình theo dõi quá trình tham gia các hoạt động tập thể của HS, qua các hoạt động của HS trong việc chấp hành nội quy của lớp, Đội TNTPHCM, trường và qua trò chuyện với HS tôi nhận thấy: - Về kỹ năng: Một số HS đã có kỹ năng chủ động chọn được các hình thức hoạt động phù hợp với năng khiếu, sở trường của mình. Lễ phép với thầy cô, người lớn tuổi, có tinh thần đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau trong học tập và cuộc sống.. nhưng chưa có các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống như kỹ năng phòng tránh ứng phó với một số thảm họa thiên tai như mưa, lũ, cháy nổ, đuối nước… - Về thái độ: Đa số HS chưa tự tin, mạnh dạn chủ động tham gia các hoạt động sinh hoạt tập thể và chia sẻ với người lớn khi xảy ra các thảm họa thiên tai…. 10 Qua khảo sát thực tế, tôi thấy thực trạng quản lí công tác GVCNL ở các nhà trường THCS hiện nay có nhiều điểm mạnh: Có sự chỉ đạo khá sát sao của lãnh đạo nhà trường, đội ngũ GVCN có chất lượng tương đối tốt. Đa số GVCNL đã nhận thức rõ được vai trò của công tác CN nên đã chú trọng và quan tâm đúng mức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ CN lớp của mình. Các GVCN đều quan tâm đến việc thực hiện nề nếp các tiết học, các tiết NGLL, tổ chức các hoạt động của HS, các tiết sinh hoạt cuối tuần….Tuy nhiên bên cạnh đó việc quản lý công tác CN lớp của hiệu trưởng cũng chưa có một quy trình khoa học, công tác phân công GVCN vẫn còn chưa hợp lý, công tác chỉ đạo đội ngũ GVCNL còn chưa thực sự chủ động. Việc xây dựng kế hoạch hoạt động của GVCN trong năm học chưa khoa học, chưa có tính khả thi lớn. Tổ CN chưa có đầy đủ các quy chế,quy định để hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. Việc sinh hoạt rút kinh nghiệm của tổ CN còn chưa được thường xuyên. Chỉ đạo sinh hoạt tổ CN còn chung chung, nặng về hình thức chưa có chiều sâu, chưa cụ thể hóa các chuyên đề trong sinh hoạt tổ. Việc tổ chức bồi dưỡng các kỹ năng cho GVCN theo chuyên đề chưa được duy trì liên tục hàng năm. Việc động viên khen thưởng cho GVCN cònchưa được quan tâm đúng mức, hoạt động thăm và kiểm tra góc học tập của HS của GVCN còn hạn chế, sự phối kết hợp giữa GVCN với gia đình HS chưa thường xuyên, có những gia đình gần như phó mặc con cho nhà trường, GVCN…. Không những thế nhà trường loại hình GV không đồng đều nên việc lựa chọn GVCN tốt phân công làm công tác CN còn gặp khó khăn, GVCN phải dạy nhiều giờ, do đó không dành nhiều thời gian và công sức cho công tác CN lớp. Từ thực tế công tác tại nhà trường, đội ngũ cán bộ quản lý trong nhà trường đã có nhiều giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý của đội ngũ GVCN lớp. Tuy nhiên trong quá trình quản lý còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch, chỉ đạo hoạt động, thiếu tính cương quyết trong xử lý. Từ những lý do trên tôi xin đề xuất “Một số biện pháp của hiệu trưởng trong công tác chỉ đạo đội ngũ GVCN lớp trong trường THCS” 11 4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện: Từ những thuận lợi và khó khăn trên, là một hiệu trưởng tôi đã thực hiện những giải pháp sau và đạt được hiệu qua trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ GVCNL góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện tại nhà trường. 4.1. Đổi mới việc xây dựng kế hoạch hoạt động CN lớp, việc tổ chức thực hiện kế hoạch và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. Đây là 3 công đoạn không thể thiếu trong công tác quản lý công tác CN lớp. 4.1.1 Đổi mới việc xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, định hướng cho GVCN xây dựng kế hoạch CN: Người hiệu trưởng phải lập kế hoạch trong đó trú trọng tới công tác CN. Bởi vì lập kế hoạch CN là lựa chọn của một trong những phương án hành động trong tương lai để đạt được mục tiêu mong đợi trên cơ sở khả năng hiện tại và cũng để làm cơ sở để định hướng cho GVCNL xây dựng kế hoạch CN cho lớp CN của mình. Trong kế hoạch hiệu trưởng giao chỉ tiêu phấn đấu cho từng khối lớp, từng lớp về từng mặt phấn đấu cụ thể như: chỉ tiêu về mặt đạo đức, mặt học tập, chỉ tiêu về phát hiện và bồi dưỡng HS giỏi, HS năng khiếu, chỉ tiêu về phụ đạo HS yếu và giáo dục HS cá biệt.. hướng dẫn GVCN xây dựng kế hoạch theo mẫu sổ CN và cụ thể chi tiết. (phụ lục 3 đi kèm). Duyệt kế hoạch công tác của đội ngũ GVCN. Tổ chức góp ý, rút kinh nghiệm về những ưu khuyết điển và bổ sung những nội dung còn thiếu, giao cho các tổ chuyên môn tổ chức cho các GVCN thực hiện ký cam kết về việc thực hiện kế hoạch và các chỉ tiêu giáo dục trong kế hoạch. 4.1.2. Tổ chức thực hiện kế hoạch: Sau khi có kế hoạch cụ thể, hiệu trưởng tổ chức họp hội đồng CN phân công rõ ràng từng nội dung công việc đến từng thành viên thực hiện. Sự phân công phải cụ thể về: Nội dung công việc, thời gian hoàn thành, chất lượng sản phẩm. Đặc biệt hiệu trưởng cần xác lập cơ cấu phối hợp giữa các bộ phận chức năng để công việc được tiến hành đồng bộ, toàn diện, đúng với tiến độ của kế hoạch chung. 12 Trong quá trình thực hiện kế hoạch, hiệu trưởng phải trú trọng đến công tác nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lý lớp của GVCN bằng cách rút kinh nghiệm thường xuyên. Nghiên cứu và triển khai tới đội ngũ GVCN để họ áp dụng các kiến thức mới, tự bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn… Tiếp nhận các nguồn bổ sung nhân sự, vật chất thiết bị, tài chính và các tài liệu thông tin khoa học mới phục vụ cho công tác giảng dạy và giáo dục HS. Huy động toàn bộ lực lượng trong trường tích cực hoàn thành công việc đúng tiến độ và đảm bảo chất lượng. Giám sát thực hiện công việc và điều chỉnh kịp thời những bất hợp lý, tháo gỡ khó khăn và những trở ngại trong quá trình thực hiện kế hoạch, uốn nắn kịp thời những lệch lạc theo đúng quỹ đạo của chương trình chung. 4.1.3. Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch. Trong quá trình triển khai việc thực hiện kế hoạch cần quan tâm tới việc kiểm tra quá trình thực hiện kế hoạch. Cụ thể là kiểm tra đánh giá tình trạng ban đầu; kiểm tra đánh giá tiến độ công việc; phát hiện sai sót, lệch lạc; tìm nguyên nhân để điều chỉnh, uốn nắn kịp thời; cuối cùng tổng kết rút kinh nghiệm theo từng học kỳ và cả năm học để có những bài học bổ ích cho việc kiểm tra ở các năm sau. 4.2. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đổi mới quản lý công tác CN và nâng cao năng lực làm GVCN. 4.2.1. Bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đổi mới quản lý công tác CN. Trong nhiệm vụ quản lý công tác CN lớp, ngoài những kiến thức, kỹ năng quản lý, người hiệu trưởng phải có sự hiểu biết sâu sắc về các nội dung quản lý hoạt động công tác của GVCN các lớp, các yếu tố ảnh hưởng tới việc quản lý công tác CN lớp. Để bồi dưỡng nâng cao nhận thức về đổi mới quản lý giáo dục trong trường, hiệu trưởng cần tổ chức cho các GV: Không ngừng học tập, nghiên cứu các chủ trương chính sách của Đảng, đặc biệt là các chủ trương, chính sách trong thời kỳ đổi mới, chú trọng chủ trương đổi mới công tác quản lý giáo dục. Nắm vững hệ 13 thống các mục tiêu quản lý của trường THCS, trong đó có mục tiêu quản lý công tác CN lớp trong giai đoạn mới. Người GV phải thấy được vị trí, vai trò của GVCNL đối với việc thực nhiệm vụ chính trị của nhà trường, của bậc học, với việc thực hiện nhiệm vụ năm học. Đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, để nâng cao chất lượng giáo dục đòi hỏi phải có đội ngũ GVCNL có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong ứng xử sư phạm và lòng nhiệt tình, ý thức trách nhiệm với HS. Để làm được điều đó, ngay từ đầu năm học, hiệu trưởng tổ chức cho cán bộ, GV, nhân viên trong toàn trường tìm hiểu các tài liệu, các văn bản của ngành, của Sở quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của GVCNL. Có nhiều hình thức có thể tập huấn tập chung, có thể in ấn các tài liệu giao cho các cán bộ, GV, nhân viên tìm hiểu theo nhóm, khối và yêu cầu viết thu hoạch hoặc tổ chức hội thảo chuyền đề về “ vai trò và tầm quan trọng của người GVCNL trong giai đoạn hiện nay”. Trong các buổi hội thảo, chuyên đề hiệu trưởng giao cho các nhóm GV, các cá nhân, Đoàn, Đội….chuẩn bị một số tham luận hướng đến chủ đề “vai trò và tầm quan trọng của người GVCNL”. Đối tượng tham gia không chỉ có tất cả các cán bộ, GV và nhân viên trong nhà trường mà cần mời đại diện các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tham dự nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền. 4.2.2. Bồi dưỡng nâng cao năng lực làm GVCN và xây dựng đội ngũ GVCNL. Người hiệu trưởng kết hợp với các bộ phận chức năng xây dựng kế hoạch chiến lược về công tác bồi dưỡng, đào tạo GVCN cụ thể trong kế hoạch Bồi dưỡng đội ngũ; khảo sát nhu cầu đào tạo bồi dưỡng…Công khai kế hoạch, quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ GVCN ở từng giai đoạn đến từng thành viên trong nhà trường để các bộ phận, các cá nhân chủ động sắp xếp công việc tham gia vào khoá đào tạo, bồi dưỡng một cách chủ động, hiệu quả. Đồng thời có thể tổ chức tọa đàm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của chính các GV làm công tác CN giỏi trong trường. Qua đó, tổng kết, đúc rút kinh nghiệm để vận dụng xây dựng đội ngũ GVCNL của trường…Trong quá trình bồi dưỡng, hiệu trưởng cần lựa chọn nội dung, cách thức và phương pháp bồi dưỡng sao cho đạt hiệu quả cao 14 nhất. Nội dung bồi dưỡng phải cụ thể như: bồi dưỡng các kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức và xây dựng tập thể tự quản, tổ chức các hoạt động giáo dục toàn diện, đánh giá HS; bồi dưỡng các phương pháp như: xử lý các tình huống sư phạm, giáo dục HS cá biệt. Có thể tổ chức bồi dưỡng thường xuyên, theo chu kỳ về nghiệp vụ, có thể qua hình thức thăm lớp, dự giờ, sinh hoạt tổ chuyên môn theo định kỳ, tổ chức các hội thảo chuyên đề, có thể thông qua các hình thức kèm cặp giúp đỡ theo nhóm, tổ hoặc tổ chức hội thi GVCN lớp hằng năm, chú trọng công tác viết sáng kiến về công tác CN lớp hay tạo điều kiện cho GV thăm quan các trường để học hỏi và rút kinh nghiệm. Ngoài việc bồi dưỡng người hiệu trưởng phải xây dựng được đội ngũ GVCNL có trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh nghiệm quản lý, có phương pháp CN tốt. Việc lựa chọn, phân công GVCN cho năm học nên có định hướng ngay sau khi kết thúc năm học. Khi vào năm học mới hiệu trưởng rà soát lại và bổ sung đội ngũ này. Khi lựa chọn GVCN, không nên cứng nhắc dựa trên số tiết GV giảng dạy mà cần quan tâm đến năng lực và ý thức học hỏi, cầu tiến của GV. Muốn lựa chọn và phân công GVCN có chất lượng và đạt yêu cầu, hiệu trưởng cần phải tranh thủ ý kiến đóng góp xây dựng của các tổ chức đoàn thể trong nhà trường như: tổ chuyên môn, tổ CN và các GV có kinh nghiệm trong công tác quản lí và giáo dục HS. Đặc biệt khi phân công GVCN cần tính đến các yếu tố về: Năng lực, trình độ của GV; sự hiểu biết HS về tâm lý lứa tuổi; Năng lực giao tiếp với HS và phụ huynh HS; Năng lực tổ chức các hoạt động tập thể; Khả năng cảm hóa, thuyết phục HS theo từng cá tính HS; Điều kiện, hoàn cảnh của từng GV và một trong những yếu tố không thể thiếu là đảm bảo tính kế thừa, khoa học, phù hợp với đăc điểm, tình hình của nhà trường và chương trình dạy học. Song song với việc bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ GV CN hiệu trưởng cần quan tâm tới việc thành lập hội đồng CN. Hiệu trưởng trực tiếp làm tổ trưởng hoặc giao cho phó hiệu trưởng phụ trách. Để tổ CN hoạt động theo đúng chức năng của mình, hiệu trưởng cần chỉ đạo việc xây dựng các quy định, quy chế hoạt động 15 như: quy định về vị trí, chức năng và nhiệm vụ của tổ CN; quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ trưởng, tổ phó khối phó CN; Xây dựng quy chế làm việc, quy chế hội họp, quy chế thông tin báo cáo…nhằm tạo một hành lang pháp quy cho tổ CN. 4.2.3. Thực hiện quản lý công tác GV CN lớp một cách khoa học. Người hiệu trưởng phải quản lý công tác CN lớp một cách có hệ thống, tạo nên một thể thống nhất, hoàn chỉnh và đảm bảo cho quá trình đó đạt được hiệu quả tối ưu. Hay nói cách khác, phải nhìn nhận quá trình đó ở trong trường dưới góc độ bao quát và toàn diện. Phải xác định được các thành tố trong quản lý công tác CN lớp gồm: Quản lý các thầy, cô giáo làm CN lớp; quản lý những công việc cụ thể; Quản lý các mối quan hệ giữa GV CN lớp với HS, mối quan hệ giữa GV CN lớp với GV khác, giữa GV CN với phụ huynh HS, với xã hội; Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nền nếp của HS, đánh giá xếp loại hạnh kiểm HS; Quản lý hồ sơ của CN lớp; quản lý việc sử dụng và bồi dưỡng đội ngũ GV. Để quản lý tốt công tác CN lớp, đảm bảo hệ thống vận hành đúng yêu cầu người hiệu trưởng cần hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho GV làm CN lớp một cách rõ ràng, có kế hoạch kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các nhiệm vụ đã giao, có hệ thống công cụ để theo dõi, kiểm tra đánh giá tiến độ thực hiện và chất lượng các nhiệm vụ được giao, động viên, khuyến khích kịp thời những việc làm, rút kinh nghiệm, uốn nắn những sai lệch một cách nghiêm túc, thường xuyên. Bên cạnh đó, phát huy tính chủ động, sáng tạo của phó hiệu trưởng, tổ trưởng, GV CN lớp trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ được giao nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp trong quản lý hoạt động CN lớp. 4.2.4 Tổ chức đối thoại và lấy ý kiến HS về công tác quản lí của GV CN lớp. Trong năm học định kì hoặc đột xuất Ban giám hiệu nhà trường tổ chức sinh hoạt, đối thoại trực tiếp hoặc thông qua kế hoạch kiểm tra nội bộ trường học lấy ý kiến của HS bằng phiếu thăm dò ở một số lớp hoặc toàn trường về nội dung: Phản 16 ánh về công tác làm CN của GV CN lớp; tâm tư, nguyện vọng, đề xuất với nhà trường về GV CN của lớp. Trên cơ sở đó người hiệu trưởng và Ban giám hiệu có biện pháp chỉ đạo và điều chỉnh hoạt động của GV CN lớp, đồng thời cũng điều chỉnh kế hoạch, biện pháp của nhà trường cho phù hợp với thực tế hơn. 4.2.5 Tổ chức hội thảo về công tác CN lớp và thi GV CN giỏi a. Tổ chức hội thảo về công tác CN lớp. Trong mỗi năm học nhà trường tiến hành tổ chức hội thảo về công tác CN lớp với: *.Mục đích: Làm rõ những khó khăn, thuận lợi của công tác CN lớp trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. Định hướng đổi mới nội dung, phương pháp công tác CN lớp, tăng cường năng lực làm công tác CN lớp cho GV trong nhà trường. *. Nội dung của hội thảo tập trung vào các vấn đề chính: Những khó khăn thuận lợi, của công tác CN lớp trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay. Các yêu cầu đối với GV làm công tác CN lớp về nội dung phương pháp và kỹ năng thực hiện công tác của GV CN lớp. Những kinh nghiệm công tác của GV CN lớp. Phương hướng, giải pháp tăng cường năng lực làm công tác CN cho GV. GV CN lớp với việc triển khai có hiệu quả phong trào thi đua" Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực" Các nội dung hội thảo trên được phân công cho một số đồng chí GV chuẩn bị trước, mỗi đồng chí chuẩn bị một đến hai nội dung và mỗi nội dung có hai đến ba đồng chí chuẩn bị. *. Thành phần tham gia hội thảo: Toàn bộ GV nhà trường vì ai cũng có thể phải làm GV CN không tham gia CN tại thời điểm hiện tại thì cũng có thể tham gia trong thời gian tiếp theo. Chủ trì hội thảo: một đồng chí trong ban giám hiệu thường có thể là hiệu trưởng hoặc là Phó hiệu trưởng chuyên môn. Sau hội thảo BGH phải có văn bản chỉ đạo thống nhất các vấn đề mà hội thảo đã thảo luận mà chưa có trong các văn bản quy định của cấp trên để triển khai thực hiện thống nhất trong nhà trường. 17 b. Tổ chức thi GV CN giỏi: - Đối tượng dự thi: Là những GVCN được xếp loại GV CN giỏi trong học kì hoặc trong năm. - Nội dung dự thi: Một sáng kiến đổi mới về công tác CN lớp. Thực hiện 02 tiết hướng dẫn hoặc chỉ đạo lớp thực hiện các hoạt động như: Sinh hoạt lớp cuối tuần, GV CN họp với ban cán sự lớp, GV CN lớp làm công tác tuyên truyền với HS... - Tiêu chuẩn GV CN giỏi: Xếp loại cuối năm là GVCN Giỏi. Sáng kiến được xếp loại. Hai tiết làm công tác CN với lớp xếp 1 tiết loại khá, 1 tiết loại giỏi. Qua tổ chức thi động viên khích lệ được đội ngũ GVCN lớp đạt danh hiệu hăng hái công hiến để xứng đáng với danh hiệu đạt được, các đồng chí chưa đạt thì nỗ lực phấn đấu, rèn luyện và trau dồi kinh nghiệm để đạt kết quả cao hơn ở lần thi sau. 4.2.6.Tôn vinh khen thưởng GV CN giỏi: BGH cần trú trọng công tác tôn vinh khen thưởng GVCN giỏi, GV CN giỏi không những được tham gia tiêu chí để đánh giá xếp loại chuyên môn nghiệp vụ hàng năm của GV, mà còn phải được tôn vinh một cách đúng mức xứng đáng với công lao, sức lực và trí tuệ của họ đã đầu tư xây dựng lớp vững mạnh. GVCN giỏi toàn diện phải được Hiệu trưởng cấp giấy chứng nhận "GVCN giỏi toàn diện" và khen thưởng theo quy định khen thưởng của nhà trường, được đề nghị và khen thưởng như những cán bộ GV đạt danh hiệu thi đua cấp thị xã và được ghi tên trong bảng vàng danh dự của nhà trường ... 4.3. Tăng cường kiểm tra, đánh giá công tác GVCN lớp trong kiểm tra nội bộ trường học. 4.3.1. Mục đích, yêu cầu kiểm tra: Việc kiểm tra đánh giá công tác CN lớp là vấn đề các nhà quản lý cần đặc biệt quan tâm và thực hiện một cách khoa học, tránh hình thức. Để công tác kiểm tra đánh giá đạt hiệu quả, người quản lý phải xây dựng kế hoạch và cụ thể hóa 18 công tác kiểm tra, đánh giá trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của nhà trường. Cần xây dựng chuẩn đánh giá GVCN và triển khai quán triệt thực hiện đầy đủ các quy định về đánh giá công tác CN lớp. Những quy định của trường về cách đánh giá cho điểm được bàn bạc công khai, dân chủ. Đặc biệt người hiệu trưởng cần xác định mục đích kiểm tra để phát hiện những vấn đề cần điều chỉnh trong công tác GVCN lớp và phải góp ý chân thành, tôn trọng và giữ uy tín cho GV trách gây áp lực khiến GVCN lớp mặc cảm, tự ty. 4.3.2. Nội dung kiểm tra, đánh giá. Trong kiểm tra, đánh giá công tác CN lớp cần tập trung vào các nội dung: a. Hồ sơ của GV CN lớp. b. Công tác tổ chức lớp: Ban cán sự lớp, tổ trưởng, bàn trưởng, phân chia tổ học tập, sắp xếp chỗ ngồi. luân chuyên cán bộ lớp… c. Kiểm tra việc thực hiện nền nếp của lớp hàng ngày như: đi học, trực nhật, vệ sinh, tập thể dục giữa giờ, trang trí lớp, bảo vệ của công; kiểm tra việc thu chi của các lớp, kiểm tra việc đánh giá HS của GVCN. Căn cứ vào những quy định cụ thể của trường để đánh giá cho điểm; công bố công khai trước toàn trường. d. Kiểm tra việc ghi lý lịch của HS vào sổ kiểm tra đánh giá HS. Căn cứ vào kế hoạch được giao, GVCN phải ghi đầy đủ thông tin vào sổ. Người quản lý trong quá trình kiểm tra nghe GVCN báo cáo về hoàn cảnh đặc biệt của HS, diện con thương binh liệt sĩ, bệnh binh, hộ nghèo, có hoàn cảnh đặc biệt, nghe giải pháp của GVCN trong việc giúp đỡ HS cá biệt, HS có hoàn cảnh khó khăn. e. Kiểm tra việc đánh giá, xếp loại hạnh kiểm, học lực HS cuối kỳ, cuối năm theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, xét lên lớp, thi lại ở lại lớp rèn luyện trong hè, đề nghị các danh hiệu thi đua cuối kì và cuối năm...Căn cứ vào yêu cầu nội dung các môn học, kiểm tra việc đánh giá của GV CN có đúng không. f. Kiểm tra việc GV CN lớp làm công tác phối hợp với gia đình HS, với GV bộ môn của lớp, với Đội thiếu niên để giáo dục HS...và làm công tác giáo dục HS cá biệt, công tác tuyên truyền, vận động sĩ số… 19 g. Kiểm tra kết quả và hình thức GVCN lớp tổ chức các phong trào thi đua cho lớp thực hiện, tổ chức các hoạt động vui chơi, sinh hoạt lớp, sinh hoạt ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm, phổ biến các kĩ năng sống, ứng xử cho HS trong lớp. 4.3.3. Hình thức, phương pháp kiểm tra. Trong quá trình chỉ đạo quản lý người hiệu trưởng phải vận dụng linh hoạt các hình thức và phương pháp kiểm tra sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Có thể trực tiếp kiểm tra, hoặc giao cho Phó hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn, tổng phụ trách Đội, bí thư Đoàn thanh niên hoặc thành lập các tổ kiểm tra công tác CN lớp. Kiểm tra định kì công tác CN và phong trào lớp. Có thể kiểm tra hai tháng một lần với các nội dung trình bày ở mục 4.3.2. Riêng nội dung e kiểm tra định kì mỗi học kì một lần. Ngoài ra có thể lồng trong kiểm tra chuyên môn nghiệp vụ khi GV đảm nhiệm chủ nhiệm lớp. Lấy kết quả đánh giá chuyên môn nghiệp vụ GV. Khi kiểm tra có thể kiểm tra đột xuất: Dự các giờ sinh hoạt lớp để đánh giá việc tổ chức giáo dục chính trị, tư tưởng cho HS. Kiểm tra việc thực hiện các phong trào của lớp….Có thể kiểm tra trực tiếp thông qua các loại hồ sơ sổ sách như sổ điểm, sổ CN, học bạ, báo cáo của tổ chuyên môn, tổ CN. Có thể tiến hành kiểm tra chéo hoặc nâng cao ý thức tự giác tự kiểm tra…Để đánh giá khách quan công bằng người hiệu trưởng cần lắng nghe ý kiến của GV, các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh và HS. Kết thúc mỗi kì, mỗi năm yêu cầu mỗi GV tự đánh giá theo chuẩn, tổ CN họp đánh giá xếp loại và động viên khen thưởng kịp thời tạo ra động cơ lành mạnh, kích thích mọi thành viên cố gắng vươn lên khẳng định mình. 4.4. Xây dựng quy chế phối hợp giữa GVCN lớp với các lực lượng giáo dục. Hiệu trưởng cần có kế hoạch kết hợp giữa các lực lượng trong nhà trường với đội ngũ GVCN để làm tốt công tác giáo dục. Để quá trình phối hợp đạt hiệu quả cao cần xây dựng quy chế phối hợp với các lực lượng giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và địa phương. Kết hợp giữa công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên, GV bộ môn với GVCN lớp để làm tốt công tác tổ chức thực hiện nền nếp, thi đua dạy tốt, học tốt trong nhà trường. 20