23 577 KB 0 17 Nhấn vào bên dưới để tải tài liệu Đang xem trước 10 trên tổng 23 trang, để tải xuống xem đầy đủ hãy nhấn vào bên trên Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 MỤC LỤC
Tên nội dung
I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
2. Thực trạng
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
c. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa.
d. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa
e. Tập hợp nghiên cứu các bài tập về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa,
bài tập phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa
g. Tự tích lũy một số trường hợp về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
trong cuộc sống hàng ngày để có thêm vốn từ trong giảng dạy
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
4. Kết quả
III. PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú Trang
2
2
3
3
3
3
3
4
7
7
7
7
9
12
14
15
15
17
18
18
18
19
19
21 1 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp chính thức
của cộng đồng các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Bởi thế dạy Tiếng Việt có
vai trò cực kì quan trọng, những thay đổi quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội,
văn hóa giáo dục đòi hỏi những yêu cầu mới trong dạy môn Tiếng Việt nói chung
và phân môn Luyện từ và câu nói riêng. Một trong những nguyên tắc cơ bản của
dạy Tiếng Việt là dạy học thông qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt
giao tiếp bằng ngôn ngữ là công cụ cực mạnh để học sinh tiếp cận, rèn luyện và
phát triển khả năng sử dụng từ tiếng Việt. Do đó, việc đưa học sinh vào các hoạt
động học tập trong môn Tiếng Việt được giáo viên đặc biệt quan tâm, chú ý. Ngôn
ngữ tiếng Việt của chúng ta thực sự có nhiều khía cạnh khó, một trong những nội
dung khó đó là phần nghĩa của từ. Dân gian có câu: „„Phong ba bão táp không bằng
ngữ pháp Việt Nam”.
Thật vậy, trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ
được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Nhiều năm liền
trong quá trình dạy học, tôi thường nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được
các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng không mấy khó khăn, tuy nhiên
khi học xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự nhầm lẫn và
khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cũng không được như mong đợi
của giáo viên. Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng
trong phân môn Luyện từ và câu – chương trình Tiếng Việt lớp 5. Trong thực tế thì
đa số học sinh kể cả học sinh giỏi và không ít giáo viên nhầm lẫn giữa từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa. Trăn trở về vấn đề này, qua nhiều năm dạy học lớp 5, tôi đã rút
ra một số kinh nghiệm nhỏ về cách hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ
nhiều nghĩa. Vì thế, tôi đã chọn đề tài: Giúp học sinh phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
- Mục tiêu:
Thực hiện đề tài này nhằm giúp học sinh hiểu nghĩa từ, sử dụng từ đúng,
chính xác và vận dụng trong khi nói, viết, làm Tập làm văn…Chính vì vậy, tôi phải
tự trang bị cho mình kiến thức Tiếng Việt vững vàng nhằm đáp ứng nhu cầu học
tập của học sinh, giúp các em hiểu đúng nghĩa của từ và hiểu từ trong từng văn
cảnh cụ thể.
- Nhiệm vụ:
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 2 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Trường Tiểu học Trần Phú đóng trên địa bàn thị trấn Buôn Trấp. Thành phần
học sinh rất đa dạng, con em tư thương, con em nhà nông, con em cán bộ viên
chức, con em các dân tộc thiểu số…. Phần đông học sinh là con em của địa
phương. Nhờ sự quan tâm của các cấp, các bậc phụ huynh và đặc biệt là được sự
quan tâm của lãnh đạo nhà trường cùng với đội ngũ giáo viên giỏi, nhiệt tình có
nhiều kinh nghiệm, nên tỷ lệ học sinh khá giỏi tương đối cao. Trường đã nhiều năm
được đánh giá là trường tiên tiến cấp tỉnh. Trường là nơi hội tụ của những học sinh
từ nhiều miền quê khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập trung nhiều tín ngưỡng
khác nhau. Nhiệm vụ chung của nền giáo dục quốc dân nói chung và giáo dục học
sinh Tiểu học nói riêng là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có đầy đủ phẩm
chất đạo đức, năng lực và trí tuệ đáp ứng yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn
mới. Trong đó giáo dục Tiểu học giữ vai trò vô cùng quan trọng. Giáo dục học sinh
ở Tiểu học là đặt nền móng, là tạo tiền đề cho sự phát triển trí tuệ và phẩm chất ở
giai đoạn tiếp theo.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh lớp 5 trường Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5A trường Tiểu
học Trần Phú nói riêng
4. Phạm vi nghiên cứu
- Từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu, lớp 5 và một
số tài liệu hướng dẫn có liên quan.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp đàm thoại.
- Phương pháp đối thoại.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp đọc sách và tham khảo tài liệu.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Tạp chí Thế giới trong ta - Chuyên đề 62 + 63 số ra trong tháng 4 + 5 năm
2007 có đăng bài viết đề cập đến nội dung “Giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa. Đây là một vấn đề không bao giờ được coi là cũ, là thừa
trong “Kho tri thức nghiệp vụ dạy học”. Sách Tiếng Việt 5 tập Một, sách giáo viên
5 tập Một, sách Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học. Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 3 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 - Công văn 5842/BGDĐT-VP, v/v Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học
GDTH, ngày 01 tháng 9 năm 2011 của BGDĐT
- Thông tư số 30/2014/TT- BGDĐT ngày 28 tháng 8 năm 2014 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, về việc ban hành quy định đánh giá học sinh Tiểu học.
Các nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy – học Tiếng Việt bao gồm :
Nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy; Nguyên tắc hướng
hoạt động vào giao tiếp. Nguyên tắc chú ý tới trình độ tiếng Việt vốn có của học
sinh. Nguyên tắc so sánh và hướng tới hai kĩ năng nói và viết và nguyên tắc đảm
bảo mối quan hệ hữu cơ giữa dạy học tri thức và rèn luyện kỹ năng.
Trước hết, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy.
Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của tư duy và tư duy là hiện thực trực
tiếp của ngôn ngữ. Quá trình người học nhận thức các khái niệm và qui tắc của
ngôn ngữ, vận dụng nó vào giải quyết các nhiệm vụ cụ thể của giao tiếp cũng chính
là quá trình người học tiến hành các thao tác tư duy theo một định hướng. Quá trình
này không chỉ hình thành các kỹ năng ngôn ngữ mà còn hình thành các kỹ năng và
phẩm chất tư duy. Quá trình hoạt động tư duy và hoạt động ngôn ngữ là hai quá
trình có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ tới mức “Tuy hai mà một, tuy một mà
hai”. Nói một cách khác, muốn rèn luyện ngôn ngữ thì tất phải rèn luyện tư duy và
ngược lại. Để hai quá trình được thực hiện một cách có ý thức, có kế hoạch, có tính
toán, nguyên tắc rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với tư duy được cụ thể hoá thành các
yêu cầu sau đây:
- Dạy học tiếng phải gắn liền với phương pháp rèn luyện tư duy.
- Dạy học tiếng phải gắn liền với bồi dưỡng phẩm chất tư duy, tư duy hình
tượng và tư duy logic.
- Dạy học tiếng phải làm cho học sinh thông hiểu ý nghĩa các đơn vị ngôn
ngữ gắn chúng với nội dung hiện thực mà chúng phản ánh, đồng thời phải thấy
được giá trị của chúng trong hệ thống tiếng Việt. Phải chuẩn bị tốt nội dung các đề
tài cho các bài tập luyện nói, liên kết gần gũi với đời sống của các em.
2. Thực trạng
a. Thuận lợi, khó khăn
- Thuận lợi :
Khi thực hiện đề tài này bản thân tôi có những thuận lợi chiếm ưu thế. Đó là
nhiều năm trực tiếp giảng dạy lớp 5 và đã trải nghiệm thực tế, sự quan tâm của các
bậc phụ huynh và đặc biệt là được sự quan tâm của lãnh đạo nhà trường cùng với
đội ngũ giáo viên giỏi, nhiệt tình có nhiều kinh nghiệm, nên tỷ lệ học sinh khá giỏi
tương đối cao. Trường đã nhiều năm được đánh giá là trường tiên tiến cấp tỉnh.
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 4 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Trường lại đóng ở trung tâm thị trấn nên rất thuận lợi cho việc đi lại, học tập của
học sinh.
- Khó khăn :
Trường cũng là nơi hội tụ của những học sinh từ nhiều miền quê khác nhau,
đồng thời là nơi tập trung nhiều tín ngưỡng khác nhau. Kết hợp phân môn luyện từ
và câu với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt để giúp các em có vốn từ đa
dạng, phong phú. Từ đó giúp học sinh phát triển tư duy sáng tạo.
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Chẳng hạn:
- Học sinh còn giải nghĩa từ sai, lúng túng...
- Phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa còn mơ hồ, định tính
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính xác, chưa hay,
chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
b. Thành công, hạn chế
- Thành công:
Trong những năm gần đây, chất lượng đào tạo từng bước ổn định và đem lại
những hiệu qua thiết thực. Học sinh biết sử dụng từ ngữ có chọn lọc trong nói, viết,
vận dụng dùng từ đặt câu trong bài Tập làm văn tương đối hay, đặc biệt là những
HS khá giỏi.
- Hạn chế :
Việc dạy học tiếng Việt ở Tiểu học nói chung và việc dạy học phân môn
Luyện từ và câu ở lớp 5 nói riêng, bên cạnh những điểm tốt, mang lại một số kết
quả nhất định còn khá nhiều khiếm khuyết. Khuyết điểm lớn nhất, dễ thấy nhất là
bệnh rập khuôn, máy móc, thiếu tính chân thực trong cả cách dạy và cách học .
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5, các em được học khái niệm về từ
đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ
đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm bài luyện tập về từ đồng âm đã được
giảm tải, vì thế thời lượng còn ít.
Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học
khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa
gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa khác nhau của một
từ. Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa không có, trong khi đó
khả năng tư duy trừu tượng của các em còn hạn chế.
c. Mặt mạnh, mặt yếu
- Mặt mạnh :
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 5 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học, các thầy giáo, cô giáo thường quan tâm
tới nhiệm vụ bồi dưỡng và nâng cao năng lực dùng từ ngữ, cách nói, viết câu chính
xác qua giờ Luyện từ và câu. Từ đó kiến thức của các em sẽ làm cơ sở cho kĩ năng
giao tiếp. Học sinh càng hứng thú khi viết văn, càng thêm yêu quý tiếng Việt và giữ
gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
- Mặt yếu :
Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là hai mảng kiến thức quan trọng. Trong thực
tế thì đa số học sinh kể cả học sinh giỏi và không ít giáo viên nhầm lẫn giữa từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa.
d. Nguyên nhân
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức giống nhau:
đọc - viết giống nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa.
- Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có dạng bài tập phối hợp cả hai kiến
thức về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt
- Học sinh còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa
- Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là vấn đề khó kể cả giáo viên thậm chí đối
với các nhà ngôn ngữ học vẫn còn nhiều bàn cãi.
- Vốn từ vựng của các em học sinh còn hạn chế.
Từ thực trạng trên, làm thế nào để học sinh phân biệt được từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa ? Mấu chốt của vấn đề là cả giáo viên và học sinh cần phải hiểu bản
chất kiến thức: Từ đồng âm là nghĩa của các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc
(còn gọi là nghĩa chính hay nghĩa đen). Còn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một
nghĩa gốc còn các nghĩa khác là nghĩa chuyển được hiểu rộng ra từ nghĩa gốc.
e. Phân tích và đánh giá của các vấn đề thực trạng đã nghiên cứu
* Việc dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của giáo viên
Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều làm đúng vai trò
hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên do thời lượng 1 tiết học có hạn nên
giáo viên chưa lồng ghép liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các
bài học. Do đó, sau bài học, học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một
cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên còn khó khăn khi lấy
thêm một số ví dụ cụ thể ngoài sách giáo khoa để minh hoạ phân biệt từ đồng âm
và từ nhiều nghĩa.
* Về việc học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của học sinh
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đồng âm nhanh và ít sai hơn khi
học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn.
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 6 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Đặc biệt khi cho học sinh phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các nghĩa
của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng và làm bài
chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa thì phần
đa các em làm được bài, song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn.
Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng không tốt tới chất lượng giờ dạy,
không gây hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy tôi đã sử dụng một số biện
pháp giúp các em học sinh biết cách phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong
phân môn Luyện từ và câu lớp 5.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
- Hiểu lý thuyết về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa một cách chắc chắn.
- Vận dụng vào các bài tập để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
- Từ vốn từ vựng mà học sinh đã tích lũy được trong môn Tiếng Việt, các em
vận dụng vào nói, viết văn, biết trình bày một vấn đề gãy gọn, chính xác, mạnh
dạn, tự tin trong giao tiếp.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
- Rèn luyện kiến thức và kĩ năng tìm hiểu về nghĩa của từ thông qua cách
giải quyết vấn đề đơn giản, gần gũi với cuộc sống.
- Gợi vấn đề cần giải quyết, phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo. Giáo
viên tạo tình huống có vấn đề như một câu hỏi lửng, giúp học sinh cảm nhận được
vấn đề trong tình huống đó. Sau đó chính giáo viên đưa ra các vấn đề trình bày và
giải quyết vấn đề, học sinh theo dõi các tình tiết tiến hành, phát triển và giải quyết
vấn đề.
- Rèn luyện cách diễn đạt ngắn gọn, biết dùng vốn từ của mình để giải nghĩa
từ chính xác. Trên cơ sở đó, phân biệt được từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Hướng dẫn học sinh làm sổ tích lũy môn Tiếng Việt
- Thi viết đoạn văn hay theo chủ đề, trong đó có sử dụng từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa.
- Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
a. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa
+ Từ đồng âm: Là những từ giống nhau về âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa
(theo SGK TV5 - tập 1 - trang 51)
Ví dụ:
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 7 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 bò trong kiến bò: chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp bụng xuống nền bằng
cử động của toàn thân hoặc những cái chân ngắn.
bò trong trâu bò: chỉ loài động vật nhai lại, sừng ngắn, lông thường có màu
vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa...
đầm trong đầm sen: chỉ vùng trũng to và sâu giữa đồng để giữ nước.
đầm trong bà đầm : chỉ đàn bà, con gái phương Tây.
đầm trong cái đầm đất: chỉ vật nặng, có cán dùng để nện đất cho chặt.
- Đây là kiến thức cô đọng, súc tích nhất dành cho học sinh Tiểu học ghi
nhớ, vận dụng khi làm bài tập, thực hành.
- Đối với giáo viên Tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm được nói tới trong
sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm cả từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn
2 từ có hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng giữa chúng
không có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ hoàn toàn khác nhau) như
trường hợp “câu” trong “câu cá” và “câu” trong “đoạn văn có 5 câu” là từ đồng âm
ngẫu nhiên và cả từ đồng âm chuyển loại (nghĩa là các từ giống nhau về hình thức
ngữ âm nhưng khác nhau về nghĩa, đây là kết quả của hoạt động chuyển hóa từ loại
của từ).
- Ví dụ:
+ cuốc (danh từ): cái cuốc; đá (danh từ): hòn đá
+ cuốc (động từ): cuốc đất; đá (động từ): đá bóng
- Từ đồng âm hình thành do nhiều cơ chế: do trùng hợp ngẫu nhiên( gió bay,
bọn bay, cái bay), do chuyển nghĩa quá xa mà thành (lắm kẻ vì, vì lý do gì), do từ
vay mượn trùng với từ có sẵn (đầm sen, bà đầm; la mắng, nốt la), do từ rút gọn
trùng với từ có sẵn (hụt mất hai ly, cái ly; hai ký, chữ ký...)
Trong giao tiếp cần chú ý đầy đủ đến ngữ cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ
hoặc dùng với nghĩa nước đôi do hiện tượng đồng âm.
- Từ nhiều nghĩa: là từ có một nghĩa gốc và một hay một số nghĩa chuyển.
Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với nhau. (SGK
Tiếng Việt 5, tập 1 - trang 67)
Ví dụ :
+ Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người mọc ở trên mặt)
+ Từ “mắt” trong câu “Quả na mở mắt” là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự vật hiện tượng,
biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật, hiện tượng) trong thực tế khách quan
thì từ ấy được gọi là từ nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ
mật thiết với nhau.
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 8 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều
nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt một
khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện
tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương cận (hoán dụ)
người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng,
tính chất giống nhau hay gần nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính
chất, hành động này (nghĩa 1) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động
khác nghĩa (nghĩa 2), quan hệ đa nghĩa của từ nảy sinh từ đó.
Ví dụ: Chín: (1) chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ phát triển
cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.
(2) Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự
phát triển cao nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín, tài năng đã chín)
(3) Sự thay đổi màu sắc nước da (ngượng chín cả mặt )
(4) Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm (cam chín)
Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải, miêu tả
thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa
Đối với học sinh lớp 5, chúng ta không thể yêu cầu học sinh nắm vững các
thành phần ý nghĩa của từ, cách thức chuyển nghĩa của từ song yêu cầu học sinh
phải giải nghĩa một số từ thông qua các câu văn, các cụm từ cụ thể, xác định được
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ, phân biệt từ nhiều nghĩa với từ đồng âm, tìm
được một số ví dụ về sự chuyển nghĩa của từ, đặt câu với các nghĩa của từ nhiều
nghĩa.
b. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái niệm. Giáo viên tổ
chức các hình thức dạy học để giải quyết các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh
phát hiện các hiện tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về từ
đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng hợp kiến thức như nội
dung phần ghi nhớ. Đến đây, nếu là học sinh khá - giỏi, giáo viên có thể cho các em
lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa giúp các em nắm sâu và chắc phần
ghi nhớ. Sang phần luyện tập, tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để giúp học
sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Trong quá trình dạy học các bài về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh
hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ.
Ví dụ:
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 9 Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,từ nhiều nghĩa trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5 Cánh đồng Tượng đồng Một nghìn đồng - Để phân biệt nghĩa từ đá trong ví dụ: hòn đá đá bóng Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa, giáo viên chủ
yếu thông qua việc tổ chức các hình thức dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm
vững kiến thức, nhận diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa…
+ Yêu cầu học sinh hiểu và nắm ghi nhớ để vận dụng
Tâm lí học sinh làm những bài tập đơn giản, để lộ kiến thức, ngại học thuộc
lòng, ngại viết các đoạn, bài cần yếu tố tư duy. Biết vậy giáo viên cho học sinh ngắt
ý của phần ghi nhớ cho đọc nối tiếp, rồi ghép lại cho đọc toàn phần, đọc theo nhóm
đôi, có lúc thi đua xem ai nhanh nhất, ai đọc tốt. Cách làm này tôi đã cho các em
thực hiện ở các tiết học trước đó (về từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa) do đó dạy đến từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa các em cứ sẵn cách tổ chức như trước mà thực hiện. Và
kết quả có tới 27/30 học sinh thuộc ghi nhớ một cách trôi chảy tại lớp chỉ còn 3 em
có thuộc song còn ấp úng, chưa tự tin.
+ Giúp học sinh hiểu đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm giống nhau (nói
đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy rõ ràng là “đường” (1) trong
“đường rất ngọt”, “đường” (2) trong “đường dây điện thoại” và “đường” (3) trong
Giáo viên : Võ Thị Kim Yến - Đơn vị : Trường TH Trần Phú 10 This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
|