(Cadn.com.vn) - ĐÀ NẴNG - Ngày 30-11, Trường ĐH Duy Tân phối hợp với Viện nghiên cứu Châu Âu tổ chức Hội thảo Quốc gia "Khủng hoảng nợ công ở một số nước liên minh Châu Âu và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam". Tham dự Hội thảo có GS. TS. Đỗ Hoài Nam, Nguyên Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Khoa học ngành Kinh tế học (quỹ Nafosted), PGS. TS. Nguyễn An Hà, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Châu Âu, TS. Nguyễn Văn Hùng-Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu & Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng và hơn 20 nhà nghiên cứu, các đầu ngành kinh tế ở Việt Nam và giảng viên các trường ĐH trong nước. Hội thảo đã tập trung phân tích nguyên nhân, tác động của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng như đánh giá hệ thống các giải pháp ứng phó của Châu Âu, từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện và sâu sắc về bản chất, mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng nợ công để gợi mở bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về kiểm soát nợ công thời gian đến. Hội thảo cũng là dịp trao đổi kết quả nghiên cứu về chủ đề nợ công và những vấn đề cùng quan tâm giữa các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý, các tổ chức kinh tế, các trường ĐH từ Trung ương đến địa phương.
N.A.T * Cùng ngày, tại Trường ĐH Duy Tân, Tổ chức sinh viên quốc tế AIESEC tại Đà Nẵng tổ chức "Ngày hội giới trẻ và sự nghiệp 2014"(AIESEC Career Day 2014). Với 2 chủ đề chính là "Khởi nghiệp" và "Định hướng tương lai", sự kiện "Ngày hội giới trẻ và sự nghiệp 2014" thu hút hơn 350 bạn SV đến từ các trường ĐH và đại diện từ các doanh nghiệp trên địa bàn TP như: Cty CP Dinco, tập đoàn VinaCapital, giày BQ, Navigos Search, Golden Sand Resort, Hoàng Anh Gia Lai Plaza,… Tại hội thảo, các bạn SV đã được các doanh nhân chia sẻ về ý tưởng, kinh nghiệm khi khởi nghiệp, gây dựng vốn kinh doanh ban đầu, kỹ năng để được nhà tuyển dụng chú ý khi phỏng vấn xin việc… Dịp này, AIESEC Danang đã trao giải cho 2 cuộc thi được tổ chức bên lề sự kiện là cuộc thi "Viết CV" và "Thách thức sáng tạo".
Nguyễn Tuấn
Cuốn sách phác họa bức tranh tổng quan diễn biến của cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu, phân tích nguyên nhân, tác động của nó cũng như các đánh giá về hệ thống giải pháp ứng phó của châu Âu đối với cuộc khủng hoảng. Qua đó, có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về bản chất, mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng nợ công, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong kiểm soát nợ công và đề xuất chính sách phòng ngừa, đối phó với vấn đề nợ công, hạn chế rủi ro khi khủng hoảng xảy ra. Nội dung cuốn sách gồm 3 chương: - Chương I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về nợ công - Chương II. Cuộc khủng hoảng nợ công tại châu Âu - Chương III. Bài học từ cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu với vấn đề nợ công ở Việt Nam Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên, học viên cao học trong các trường cao đẳng, đại học và các học viện cũng như các nhà nghiên cứu kinh tế khi tìm hiểu về vấn đề nợ công.
NỢ CÔNG HY LẠP VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.6 KB, 34 trang ) MỤC LỤC. I.1.1 Định nghĩa. Theo luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 thì nợ công bao gồm: Nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Như vậy, Các khoản vay như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. I.1.2 Phân loại nợ công. Phân theo nguồn vay bao gồm: vay trong nước; vay nước ngoài. Phân theo chủ thể đi vay bao gồm: Chính phủ; chính quyền địa phương; doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng được Chính phủ bảo lãnh.. Phân theo loại hình vay bao gồm: vay hỗ trợ phát triển chính thức (vay ODA); vay ưu đãi; vay thương mại. Phân theo thời hạn vay bao gồm: vay ngắn hạn; vay trung – dài hạn; Phân theo loại lãi suất bao gồm: lãi suất cố định; lãi suất thả nổi. Phân theo chủ nợ và nhóm chủ nợ: chủ nợ chính thức; chủ nợ tư nhân. Phân theo công cụ nợ bao gồm: thỏa thuận vay; tín phiếu; trái phiếu; công trái và các công cụ nợ khác.Chỉ tiêu xác định tình trạng nợ công và ngưỡng an toàn nợ công. a) Các chỉ tiêu giám sát về nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm: Nợ công so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nợ chính phủ so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. 2 Nợ vay thương mại của Chính phủ so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ vay thương mại nước ngoài Chính phủ so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nợ được Chính phủ bảo lãnh so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô được Chính phủ bảo lãnh so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) trực tiếp của Chính phủ: Chỉ số này xác định quy mô trực tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn thu ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nghĩa vụ trả nợ (gốc, lãi) vay của Chính phủ về cho vay lại: Chỉ số này xác định quy mô nợ gián tiếp của Chính phủ đến hạn hàng năm so với khả năng trả nợ của Chính phủ bằng nguồn thu ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước: Tỷ lệ này xác định khả năng hoàn trả đối với nghĩa vụ nợ dự phòng phát sinh từ khoản vay, phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh từ nguồn thu ngân sách nhà nước và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nợ chính quyền địa phương so với GDP: Chỉ số này phản ánh quy mô nợ của Chính quyền địa phương so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nợ nước ngoài của quốc gia so với GDP: Chỉ số này phản ánh tương quan giá trị dư nợ nước ngoài của quốc gia so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài (gốc, lãi) hàng năm so với kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dịch vụ: Chỉ số này phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. 3 Dự trữ ngoại hối nhà nước so với nợ nước ngoài ngắn hạn: Chỉ số này phản ánh khả năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm. b) Ngưỡng an toàn của nợ công: Chỉ tiêu Quy định TTCP Chưa có <50% 1. Nợ công/GDP Nợ chính phủ/GDP Nợ chính phủ bảo lãnh/GDP Nợ chính quyền địa phương/GDP 2. Nợ nước ngoài của quốc gia/GDP 3. Dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn 4. Nghĩa vụ trả nợ CP/thu NSNN 5. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/XK I.2 của Khuyến cáo của WB <60% <50% Chưa có <50% >200% <30% <20% <35% <25% Khủng hoảng nợ công. I.2.1 Thế nào là khủng hoảng nợ công. Khủng hoảng nợ công là tình trạng nợ công tăng cao (vỡ nợ), làm chao đảo nền kinh tế do sự mất cân đối giữa thu và chi ngân sách quốc gia. Nhu cầu chi nhiều quá, trong khi thu không đáp ứng nổi, chính phủ đi vay tiền thông qua nhiều hình thức như phát hành công trái, trái phiếu, hiệp định tín dụng,… để chi, từ đó dẫn đến tình trạng nợ. Thâm hụt ngân sách kéo dài làm cho nợ công gia tăng. Nợ không trả sớm, để lâu thành "lãi mẹ đẻ lãi con" và ngày càng chồng chất thêm. I.2.2 Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ công. Việc gia tăng mạnh chi tiêu từ ngân sách nhà nước, lương và chi phí hoạt động của bộ máy nhà nước…, đặc biệt, hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu vừa qua đã buộc nhiều nước phải chi rất nhiều để khắc phục. 4 Chính phủ không minh bạch các số liệu về tình trạng ngân sách của quốc gia,sự kiểm soát chi tiêu và quản lý nợ của Nhà nước yếu kém, không chặt chẽ, gây thất thoát, lãng phí trong đầu tư và chi tiêu, tệ nạn tham nhũng phát triển. Các nguồn thu (chủ yếu từ thuế) tăng không kịp với nhu cầu chi( cắt giảm thuế, trốn thuế, tệ tham nhũng, hối lộ, kiểm soát không chặt chẽ….). Tâm lý ảo tưởng về sức mạnh, uy tín quốc gia dẫn đến tình trạng vay nợ tràn lan, đầu tư quá trớn, thiếu tính toán…. Chính phủ không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng khi nền kinh tế tăng trưởng nóng tạo thành bong bóng. Mặt khác còn lựa chọn bao cấp các ngân hàng này khi họ bị thua lỗ. Tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp làm cho thâm hụt ngân sách ngày càng tăng. I.2.3 Tác động của khủng hoảng nợ công. Khủng hoảng nợ công tác động đến nền kinh tế thông qua các chỉ số sau: Cán cân ngân sách thâm hụt. Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng. Lạm phát tăng. Các doanh nghiệp hạn chế đầu tư, tốc độ tăng trưởng GDP giảm. Thất nghiệp tăng. 5 Khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, Chính phủ cần huy động để trả nợ buộc phải vay của công chúng bằng cách phát hành trái phiếu, vay mượn ở ngân hàng trung ương hoặc cầu viện cứu trợ từ các nước khác, từ các tổ chức quốc tế như IMF...hoặc tăng thuế để bù đắp thâm hụt ngân sách bên cạnh đó phải thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm chi tiêu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, lãi suất trái phiếu tăng vì chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua. Khi cán cân ngân sách thâm hụt, ngân hàng trung ương sẽ tài trợ thâm hụt bằng cách phát hành thêm tiền làm tăng khối cung tiền gây ra áp lực lạm phát. Bên cạnh đó, việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư trực tiếp, kìm hãm kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng (thể hiện ở tốc độ tăng trưởng GDP giảm sút chỉ số nợ/GDP tăng). Việc giảm chi tiêu, giảm đầu tư sẽ dẫn đến tình trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng. Mặt khác, cán cân ngân sách thâm hụt đã gây ra sự mất lòng tin của người dân và của nhà đầu tư mới đối với các nền kinh tế quốc gia khiến đồng tiền quốc gia sụt giá. Điều đó có thể dẫn tới một đợt tháo chạy với quy mô lớn trên thị trường trái phiếu và cổ phiếu làm giá chứng khoán bị sụt giảm. Chương II II.1 Khủng hoảng nợ công Hy Lạp. Vài nét về nền kinh tế Hy Lạp trước khi khủng hoảng. Hy Lạp là một quốc gia nhỏ ở Nam Âu, là thành viên của khu vực đồng tiền chung Châu Âu. Dân số Hy Lạp khoảng 11 triệu người chiếm 2,2% EU, đóng góp 2,8% GDP của EU. Hy lạp có thu nhập bình quân đầu người khoảng 17.440 đô la Mỹ. Hy Lạp có nền kinh tế phát triển với khu vực kinh tế quốc doanh chiếm khoảng 40% GDP. Cơ cấu kinh tế Hy Lạp trước năm 2009 như sau: dịch vụ 76%, công nghiệm 20,6%, nông nghiệp 3,4%. Trong đó du lịch là thế mạnh của Hy Lạp, là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu đóng góp 15% GDP. 6 Những chính cải cách kinh tế hợp lý cùng với việc gia nhập Liên minh Châu Âu đã giúp nền kinh tế Hy Lạp phát triển mạnh mẽ đồng thời nâng cao mức sống cho người Hy Lạp. Chỉ số phát triển con người xếp thứ 22 thế giới, tốc độ tăng trưởng thường xuyên nằm ở mức cao nhất so với các nước nằm trong khu vực. II.2 Thực trạng khủng hoảng nợ công Hy Lạp. II.2.1 Tỷ lệ nợ công trên GDP: Từ lúc bắt đầu tham gia sử dụng đồng tiền chung châu Âu (Euro) vào giữa năm 2001 cho đến năm 2010, Hy Lạp luôn vượt chỉ tiêu nợ công theo quy định của hiệp hội các nước thuộc khu vực EURO là 60%/ GDP, có lúc tỷ lệ nợ công của quốc gia này lên đến 142,8% GDP vào năm 2010, nợ chính phủ lên đến 328,6 tỷ EUR (năm 2010) vượt xa chỉ tiêu mà khu vực EURO cho phép, năm 2011 số nợ của Hy lạp ước tính đã lên tới hơn 350 tỷ EUR, chiếm khoảng 130,2%GDP. (Hình 2.1) Nguồn: tradingEconomics.com 7 Hình 2.1 : Tỷ lệ nợ công trên GDP của Hy Lạp II.2.2 Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp: Rủi ro lớn nhất của Hy Lạp là nợ vay nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn. Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng trái phiếu chính phủ phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng châu Âu. Các nước Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp (Hình 2.2). Sở dĩ như vậy vì các nước này có nền kinh tế tương đối lớn, ngân sách lớn, khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn, các chỉ số về cơ cấu nợ cũng như các biến số về phát triển kinh tế vĩ Mô tốt hơn Hy Lạp. Hình 2.2: Những chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp 8 Tính theo thời gian Với mức vay nợ như trên, Hy Lạp phải đối mặt với khoản nợ đến hạn phải thanh toán 8,5 tỉ euro (tương đương 11,3 tỉ đô la Mỹ) trái phiếu chính phủ vào ngày 19-5-2010. Chưa đến một năm, một đợt trả nợ kế tiếp diễn ra vào tháng 3/2011, với số tiền 8.6 tỷ Euro. Hầu hết các khoản nợ của Hy Lạp là ngắn hạn, trong đó, số nợ phải trả trong năm 2010 là 16% tổng nợ (Hình2.3) Hình 2.3:Tỷ trọng nợ công của Hy Lạp theo kỳ hạn. II.2.3 Thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài. Hy lạp thâm hụt cán cân vãng lai trong một thời gian dài, ngay từ khi đã gia nhập vào khu vực đồng tiền chung Euro, nhưng tình trạng thâm hụt vẫn không được cái thiện mà có xu hướng ngày càng tăng, đến tháng tám năm 2011,Hy Lạp báo cáo thâm hụt tài khoản vãng lai tương đương với 145 triệu EUR. (Hình 2.4) Nguồn:tradingEconomics.com Hình 2.4: Thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp 9 Sự thâm hụt cán cân vãng lai của Hy Lạp bắt nguồn từ sự thâm hụt thương mại của nước này, cũng như tình trạng cán cân vãng lai, cán cân thương mại của Hy Lạp luôn trong tình trạng thâm hụt, đến tháng tám năm 2011, Hy Lạp báo cáo thâm hụt thương mại tương đương với 2.169 triệu EUR. (Hình 2.5) Nguồn: tradingEconomics.com Hình 2.5: Thâm hụt cán cân thương mại của Hy Lạp II.2.4 Tình trạng thâm hụt ngân sách: Trong những năm 2007-2009, tình trạng thâm hụt ngân sách của Hy Lạp ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong giai đoạn từ 2008-2009. Năm 2009, mức thâm hụt ngân sách là 15.4% GDP vượt ngưỡng an toàn là 5% GDP và vượt mức cho phép của khu vực đồng tiền chung là 3%/GDP. Để bù đắp thâm hụt ngân sách, Chính phủ Hy Lạp đã vay nợ dưới nhiều hình thức. Nguồn: tradingEconomics.com Hình 2.6: Thâm hụt ngân sách của Hy Lạp Với tình trạng thâm hụt ngân sách như vậy, đến năm 2010, sau khi thực hiện các biện pháp “thắt lưng buộc bụng”, thì tình trạng thâm hụt của Hy Lạp đã giảm xuống ở mức 10,5%GDP, tuy nhiên đây cũng còn là một con số khá cao so với chỉ tiêu mà khu vực đồng tiên chung này đề ra. (Hình 2.6) 10 II.3 Nguyên nhân gây ra khủng hoảng nợ công. II.3.1 Nhân tố trong nước. Chi tiêu chính phủ quá lớn trong khi nguồn thu hạn chế. Vào giai đoạn 2001-2007, GDP của Hy Lạp tăng ở mức trung bình 4.3%, so với mức trung bình của khu vực châu Âu là 3.1%. Tốc độ phát triển kinh tế cao là nhờ có sự gia tăng nhanh của tiêu dụng ở khu vực tư nhân (được cung cấp bở các gói tín dụng dễ dãi) và đầu tư công được chính phủ và EU tài trợ. Tuy nhiên trong sáu năm đó trong khi chi tiêu chính phủ tăng lên 87% thì khoản thu chỉ tăng có 31% dẫn tới thâm hụt ngân sách trên mức cho phép theo quy định của EU. Các nhà quan sát đã chỉ ra một việc quản lý công thiếu hiệu quả và cồng kềnh của Hy Lạp, hệ thống y tế và trợ cấp lương hưu tốn kém, trốn thuế và việc thiếu ý thức duy trì kỷ cương tài chính là những nhân tố chính phía sau thâm hụt ngân sách của Hy Lạp. Theo như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), trong năm 2004, chi tiêu cho quản lý công trong tổng chi tiêu công của Hy Lạp cao hơn bất kỳ nước nào của OECD và không có gì chứng minh rằng số lượng và chất lượng của các dịch vụ công ích này là vượt trội. Năm 2009, chi tiêu công của chính phủ chiếm 50% GDP. Chính phủ kế tiếp tiếp tục muốn hiện đại hóa và củng cố vấn đề quản lý công, tuy nhiên những gì thấy được chỉ là việc bố trí quá đông nhân viên và năng suất làm việc thấp ở khu vực công lại là chướng ngại vật để tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó độ tuổi của dân số Hy Lạp trung bình trên 64, điều này có thể đặt thêm gánh nặng lên các khoản chi công cộng và hệ thống trợ cấp lương hưu thuộc hàng tốt nhất châu Âu. Theo như OECD, việc tăng tỷ lệ lương từ 70% lên 80% là khá cao và tương tự là quyền được hưởng toàn bộ trợ cấp lương hưu chỉ đòi hỏi 35 năm đóng góp so với 40 như nhiều nước khác. Ngược lại với khoản chi, các khoản thu sụt giảm cũng góp phần vào thâm hụt ngân sách Hy Lạp. Nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng vấn nạn trốn thuế và nền kinh tế không được ghi chép của nước này là nhân tố chính cho việc mất khả 11 năng thanh toán. Họ cho rằng Hy Lạp phải giải quyết vấn đề này nếu muốn tăng thu cần thiết để nâng cao vị thế tài chính. Một vài nghiên cứu đã ước lượng nền kinh tế ngầm ở Hi Lạp chiếm 25-30% GDP. Vấn đề chính sách và năng lực cạnh tranh Nền công nghiệp của Hy Lạp trải qua sự sự giảm sút về cạnh tranh quốc tế. Vấn đề tiền lương và năng suất lao động thấp cũng là những tác nhân chính. Mức độ cạnh tranh của Hy Lạp rất thấp chỉ xếp thứ 109 về những quốc gia thuận lợi kinh doanh năm 2009 bị bỏ xa so với các nước trong khu vực. Theo một nghiên cứu, mức độ chi tiền công của Hy Lạp đã tăng khoảng 5% hàng năm từ khi nước này ra sử dụng đồng euro là đồng tiền quốc gia tăng gấp hai lần tốc độ trung bình của khu vực. Cùng lúc, xuất khẩu từ Hy Lạp đến các bạn hàng chính chỉ tăng 3.8% /năm, bằng một nửa tốc độ tăng nhập khẩu của các nước này từ các bạn hàng khác. II.3.2 Nhân tố ngoài nước. Tiếp cận các nguồn vốn có mức lãi suất thấp tăng lên Việc sử dụng đồng euro làm đồng tiền quốc gia năm 2001 dường như là một tác nhân góp phần tạo nên cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp. Khi hệ thống tiền tệ được neo vào những nền kinh tế mạnh như Đức và Pháp và một chính sách tiền tệ chung được quản lý bởi Ngân hàng trung ương Châu Âu, các nhà đầu tư có xu hướng tin tưởng hơn vào các nước thành viên của đồng euro. Nhận thức được tính ổn định của đồng euro khiến Hy Lạp cũng như các thành viên khác của khối EU được vay mượn ở mức lãi suất ưu đãi hơn so với các nước ngoài khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu. Điều này cũng đồng thời tạo điều kiện cho việc tài trợ ngân sách và trả các khoản nợ đang tồn tại. Và chính những lợi ích này đã góp phần nên vấn đề nợ công của Hy Lạp. Tiếp cận dễ dàng với các khoản tín dụng với lãi suất thấp làm cho Hy Lạp nhanh chóng đạt mức độ nợ cao. Vấn đề về thi hành các qui định của EU Việc không tuân theo đúng “hiệp ước về tính ổn định và phát triển” được 12 coi là nhân tố góp phần vào mức độ nợ cao của Hy Lạp. Năm 1997, các thành viên EU đã thông qua hiệp ước này nhằm nâng cao mức độ giám sát và tuân theo các qui tắc tài chính được tạo lập trong hiệp định Maastricht 1992. Theo như qui định thì thâm hụt ngân sách không được vượt quá 3% GDP và nợ không được quá 60% GDP. Hiệp ước cũng chỉ rõ qui trình thâm hụt quá mức được phép của các thành viên. Nếu như các nước thành viên không thể áp dụng được theo phương pháp của ủy ban châu Âu trong giai đoạn thâm hụt quá mức, thì mức tốt nhất được đưa ra là 0.5%GDP. Tuy nhiên khi số lượng thành viên gia tăng việc tuân thủ theo những giới hạn được đặt ra theo hiệp định trở nên khó khăn. Từ năm 2003, có hơn 30 trường hợp thâm hụt quá mức và những thành viên bị khiển trách đã buộc phải hứa hẹn sẽ thắt chặt tài chính, nhưng EU chưa bao giờ can thiệp bằng những biện pháp tài chính vào các thành viên để xảy ra tình trạng phá bỏ những giới hạn cho phép về thâm hụt ngân sách. Việc thiếu tính tuân thủ vào hiệp định về sự phát triển và ổn định đã giới hạn vai trò của nó trong việc ngăn ngừa các nước khỏi tình trạng nợ công quá cao như Hy Lạp. II.3.3 Các nhân tố khác. Tác động của khủng hoảng tài chính 2008 Khi khủng hoảng tài chính 2008 diễn ra, các nhà lãnh đạo EU đã tung ra những gói hỗ trợ khổng lồ nhằm kích thích phát triển kinh tế để vượt qua cơn khủng hoảng. Chính những gói tài trợ này đã góp phần quan trọng làm cho tăng chi ngân sách và nợ công đáng kể. Mối quan hệ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính Đồng tiền chung hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu bao gồm Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và 16 ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên. ECB điều hành chính sách tiền tệ theo mục tiêu lạm phát. Quy định này tạo nền tảng cho việc hình thành và ổn định đồng euro, 13 nhưng nó cũng mang lại nhiều thách thức cho các chính phủ do họ không thể sử dụng chính sách tiền tệ làm công cụ hữu hiệu để hỗ trợ kinh tế phát triển. Các quốc gia thành viên khu vực đồng euro chấp thuận một ngân hàng trung ương chung, một chính sách tiền tệ chung nhưng không chấp thuận một chính sách thuế chung. Nguyên nhân sâu xa là mỗi quốc gia có một nhà nước riêng và nhà nước riêng thì cần có ngân sách riêng với hàng loạt nguyên tắc chi tiêu đính kèm. Điều này hợp lý nhưng lại là rào cản đối với khu vực đồng tiền chung bởi vì chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa luôn có mối quan hệ khắng khít với nhau. Cụ thể, lãi suất trên thị trường tiền tệ phụ thuộc vào chính sách lãi suất do ECB định đoạt. Lãi suất trái phiếu chính phủ lại do bộ tài chính của từng quốc gia quyết định. Quyết định của bộ tài chính phụ thuộc vào chính sách tài khóa của từng quốc gia. Đối với một số nước có năng lực cạnh tranh kém hơn, thâm hụt ngân sách lớn hơn các quốc gia khác trong khối, để bình ổn nền kinh tế, phát hành trái phiếu chính phủ với lãi suất cao hơn là giải pháp được ưa chuộng. Vì vậy, khủng hoảng nợ do mất khả năng chi trả chỉ còn là vấn đề thời gian. Ngoài ra, so với các quốc gia khác, khoản chi phúc lợi - an sinh xã hội và thu thuế của EU rất cao so với nhiều quốc gia khác trên thế giới. Mỹ có thu nhập bình quân đầu người là 34.320 đô la nhưng chỉ dành 19,4% GDP chi phúc lợi và an sinh xã hội. Con số tương tự ở Nhật là 25.130 đô la Mỹ/người và 18,6%. Trong khi đó, tại EU, tỷ lệ này dao động từ trên 20-38,2%. Để có tiền chi phúc lợi và an sinh xã hội, các nước buộc phải gia tăng các khoản thuế. Thực tế cho thấy, tỷ lệ thu thuế tính trên GDP của các nước trong khối EU cũng tăng vượt trội so với các quốc gia khác trên toàn cầu. Tỷ lệ này biến động từ trên 30-50% GDP. Để có nguồn thu lớn, EU đã xây dựng một biểu thuế suất cao hơn. Thuế giá trị gia tăng trung bình trên 20%, trong khi tỷ lệ này ở Mỹ và Hàn Quốc khoảng 10%; tại Nhật và Canada là 5%. Chính điều này đã làm cho EU trở thành thiên 14 đường của hưởng thụ hơn là nơi hấp dẫn nhà đầu tư bỏ vốn kinh doanh. Lợi thế trong thu hút nguồn vốn nước ngoài của EU cũng bị tác động. Là một thành viên của EU, trong các hoạt động kinh tế đối ngoại với các quốc gia ngoài EU, Hy Lạp cũng gặp những khó khăn tương tự. Không chỉ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, Hy Lạp còn bị thất thế trong các giao dịch nội khối. Là một quốc gia nhỏ, nghèo tài nguyên, năng lực cạnh tranh của Hy Lạp giảm. Mặc dù Hy Lạp thiết lập một tỷ lệ thu thuế và chi phúc lợi và an sinh xã hội ở mức trung bình của khu vực đồng tiền chung, nhưng nó cũng làm tăng mức thâm hụt ngân sách, tạo áp lực gia tăng nợ công. Như vậy, qua sự phân tích về cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp có thể thấy đây là cuộc khủng hoảng tiêu biểu cho sự chi tiêu không hợp lý của chính phủ, gây ra nhiều hệ lụy về sự suy giảm cho nền kinh tế, sự bất ổn cho nền chính trị, hệ thống y tế, giáo dục, an sinh xã hội bị suy giảm, tỷ lệ thất nghiệp cao và làm cho tổng quan nền kinh tế Hy Lạp rơi vào suy thoái. II.4 Tác động của khủng hoảng nợ công. II.4.1 Tác động đến Hy Lạp. a) Xếp hạng tín dụng: Ngày 15/6/2010, Tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s đã hạ 4 bậc xếp hạng tín dụng của Hy Lạp xuống mức không đầu tư và cảnh báo, việc Hy Lạp giảm thâm hụt ngân sách sẽ tạo ra nhiều hậu quả xấu về kinh tế. Theo hãng tin Bloomberg, xếp hạng tín dụng của Hy Lạp bị hạ xuống mức Ba1 từ mức A3. Trong tuyên bố xếp hạng tín dụng, Moody’s đã nhiều lần nhắc đến những rủi ro đối với tăng trưởng kinh tế bởi những biện pháp thắt chặt ngân sách liên quan đến gói giải cứu 110 tỷ EUR (136 tỷ USD). Dù được EU và IFM hứa hẹn “bơm” tiền nhưng hình ảnh của Hy Lạp vẫn chưa được cải thiện trong mắt các tổ chức xếp hạng độc lập, vào 14/7/2011, hãng xếp hạng Fitch đã hạ 3 bậc đối với mức tín dụng của Hy Lạp từ B+ xuống CCC, thấp nhất trong thang xếp hạng của Fitch. Lý giải cho việc này, Fitch cho rằng các chương trình tài trợ mà các tổ chức tài chính quốc tế dành cho Hy Lạp 15 chỉ đơn thuần là tài chính chứ không đưa ra những giải pháp đầy đủ và đáng rin cậy. Cũng theo Fitch , vai trò của khu vực tư nhân trong các chương trình cải cách tại Hy Lạp cũng chưa thực sự rõ ràng, trong khi triển vọng kinh tế vĩ mô không lấy làm chắc chắn. Chính vì vậy, mức xếp hạng CCC (cận kề phá sản) mới được đưa ra. Vào ngày 28/07/2011 Standard $ Poor’s (S&P) nhận định rằng hy lập sẽ phá sản một phần sau khi các quan chức châu âu thúc đẩy kế hoạch tái cơ cấu nợ trong gói cứu trợ 2. Chính vì vậy S&P đã hạ tiếp hạng tín dụng của Hy Lạp từ CCC xuống CC chỉ trên mức vỡ nợ 2 bậc với đánh giá triển vọng tiêu cực. S&P cho biết, việc cơ cấu lại nợ của Chính phủ Hy Lạp có thế nói là một trao đổi gây ra hậu quả tiêu cực vì nó có nguy cơ gây thiệt hại cho chủ nợ. b) Giá trái phiếu giảm và lãi suất tăng: Từ năm 1998 đến năm 2010 Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp có lãi trung bình 5,21%, đạt mức cao lịch sử 11,39 % trong tháng 12 năm 2010 và một mức thấp kỷ lục 3,23% trong tháng 9 năm 2005. Lãi suất trái phiếu của Hy Lạp thời gian từ 2010 trở đi tăng cao vì khủng hoảng nợ công, cán cân ngân sách thâm hụt, do đó chính phủ cần huy động vốn để trả nợ buộc phải phát hành trái phíếu. Việc phát hành thêm trái phiếu chính phủ thì giá trái phiếu chính phủ giảm, thể hiện qua việc chính phủ phải nâng lãi suất trái phiếu thì mới huy động được người mua, theo báo cáo mới nhất thì lãi suất trái phiếu của Hy Lạp đã lên đến 11,39%. (Hình 2.7) 16 Hình2.7: Lãi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp Nguồn: tradingEconomics.com c) Cắt giảm chi tiêu: Đứng trước nguy cơ vỡ nợ trong cuộc khủng hoảng nợ công trầm trọng hiên nay, chính phủ Hy Lạp buộc phải đưa ra nhiều biện pháp thắt chặt chi tiêu như tăng các loại thuế nhằm cái thiện tình hình, mặc dù các chính sách mà theo các chuyên gia thì các chính sách này cực kì đau đớn, và sẽ khiến cho cuộc sống của người dân trở nên khó khăn hơn rất nhiều, chính vì vậy, khi chính phủ Hy Lạp đưa ra các chính sách trên đã gặp không ít những là sóng phản đối từ dân chúng. Tăng các loại thuế: Trong năm 2011, Hy Lạp đã thu 2,32 tỷ Euro thuế và lần lượt là 3,38 tỷ , 1.52 triệu và 699 triệu trong 3 năm tiếp theo. Trong đó, thuế giá trị gia tăng (VAT) sẽ tăng từ 19% lến 23%. Đánh thuế vào hàng xa xỉ: Những mặt hàng xa xỉ sẽ bị đánh thuê là du thuyền, hồ bơi và ô tô. Sẽ có một loại thuế đặc biệt đánh vào các công ty làm ăn với lợi nhuận lớn, bất động sản giá trị lớn. Đánh thuế vào một số mặt hàng nội địa: Thuế đánh vào các mặt hàng nội địa như nhiên liệu, thuốc lá, thức uống có cồn sẽ tăng một phần ba. Giảm chi tiêu công: các chi tiêu trong khu vực công sẽ bị cắt 15%. 17 Giảm chi tiêu quân sự: trong năm 2012 chi tiêu cho quân sự của Hy Lạp bị cắt giảm 200 triệu Euro và từ năm 2013 đến 2015, cắt giảm mỗi năm 333 triệu Euro. Giảm chi tiêu giáo dục: chi tiêu cho giáo dục cũng bị cắt giảm bằng cách đóng cửa hoặc sát nhập 1976 trường học. Giảm chi tiêu cho an sinh xã hội: trong năm 2011, 1,09 tỷ Euro được cắt từ quỹ an sinh xã hội của Hy Lạp. Tiếp đến, từ năm 2012 đến 2015 số cắt giảm lần lượt là 1,28tỷ; 1,03 tỷ; 1,01 tỷ và 700 triệu. Bên cạnh đó, độ tuổi về hưu sẽ tăng từ 61 lên 65. Tư hữu hóa chính phủ: chính phủ Hy Lạp sẽ tiến hành tư nhân hóa các doanh nghiệp quốc doanh trong đó có OPAP, Hellenic Postbank, Hellenic Telecom. Bên cạnh đó cũng sẽ bán cổ phần tại Athens Water, công ty dầu khí Hellenic Petroleum, công ty điện PPC và lender ATEbank và một số hải cảng, sân bay, đường cao tốc, quyền sở hữu đất và khai khoáng. Sa thải công chức: trong năm 2011, cứ 10 công chức sẽ có một người bị sa thải. Chi tiêu cho y tế sẽ bị cắt giảm 310 triệu Euro. d) Đầu tư trực tiếp FDI: Chính phủ Hy Lạp đang thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng nhằm đảm bảo cam kết giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ Hy Lạp để nhận được sự trợ giúp từ EU và IMF. Vì thực hiện chính sách giảm chi tiêu, tăng thuế nên dẫn đến tình hình đầu tư FDI vào Hy Lạp giảm mạnh. 18 Nguồn: Bank of Greece 2010 Hình 2.8: Đầu tư FDI của Hy Lạp Trong năm 2009 tổng luồng vốn vào Hy Lạp đạt 4,5 tỷ Euro, và luồng vốn ròng khoảng 2,4 tỷ Euro. So với năm 2008, dòng chảy FDI vào Hy Lạp sụt giảm 21% do hậu quả của cuộc khủng hoảng nợ công. e) Tốc độ tăng trưởng GDP giảm: Từ năm 1998 đến năm 2008, GDP tăng dần qua các năm và đạt mức cao nhất vào tháng 12 năm 2008 với 355.88 tỉ $. Cuối năm 2009, khi khủng hoảng nợ công xảy ra làm cho các nhà đầu tư lo ngại về khả năng trả nợ của Hy Lạp và họ ồ ạt rút vốn ra khỏi thị trường Hy Lạp nên GDP giảm xuống còn 330 tỷ. Từ năm 2007 đến năm 2010, bình quân GDP hàng năm của Hy Lạp giảm dần và kỷ lục ở mức thấp -6,6 % trong tháng 12 năm 2010.(Hình 2.9) 19 Nguồn: tradingEconomics.com Hình 2.9: Tốc độ tăng trưởng GDP của Hy Lạp f) Thất nghiệp gia tăng: Khi nền kinh tế toàn cầu mới thoát khỏi khủng hoảng, bắt đầu có dấu hiệu phục hồi do kết quả của các gói kích thích kinh tế mà chính phủ các nước đã chi ra, thì việc cắt giảm chi tiêu, tăng thuế sẽ làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn đến tình trạng việc làm giảm, thất nghiệp gia tăng. Đồng thời với chính sách “thắt lưng buộc bụng”, đã khiến cho tình trạng thất nghiệp ở nước này càng thêm nghiêm trọng. Từ năm 1983 đến năm 2010, Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp trung bình 9,43%, do khủng hoảng nợ công tỷ lệ thất nghiệp ở Hy Lạp báo cáo ở mức 18,4% trong tháng Tám năm 2011. (Hình 2.10) Nguồn: tradingEconomics.com Hình 2.10: Tỷ lệ thất nghiệp của Hy Lạp g) Bất ổn chính trị và xã hội. Việc Hy Lạp cũng như các quốc gia khác trong khu vực thực thi các chính sách thắt lưng buộc bụng đã làm làm dấy lên làn sóng biểu tình phản đối trong khu vực đồng thời cũng làm tăng lên những bất ổn xã hội khác. Ví dụ dự thảo việc Hy Lạp hoãn trả lương công chức hay áp thêm nhiều loại thuế mới khiến làn sóng phản đối chính phủ càng mạnh thêm. 20 II.4.2 Tác động đến EU và thế giới. a) GDP của các quốc gia khu vực. Hy Lạp là một nước thành viên nhỏ của khối các nước sử dụng đồng tiền chung Châu Âu, chỉ đóng góp khoảng 2,8% tổng GDP của khu vực. Tuy nhiên, cái người ta lo ngại là hiệu ứng domino sẽ xảy ra khi Hy Lạp vỡ nợ. Lo lắng về một cuộc khủng hoảng, đổ vỡ toàn cầu đang tới gần khiến tâm lý thận trọng của nhà đầu tư tăng lên, ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu tư, chi tiêu của cá nhân…dẫn tới làm giảm tăng trưởng GDP của cả khu vực. Các nền kinh tế lớn cũng phải chia sẻ một phần nguồn lực tài chính của các chương trình hỗ trợ kinh tế trong nước cho các gói cứu trợ Hy, qua đó giảm tăng trưởng kinh tế trong nước. b) Hệ thống ngân hàng khu vực Châu Âu và Thế giới. Đức và Pháp là 2 nước chủ nợ lớn nhất của Hy Lạp. Việc Hy Lạp vở nợ sẽ làm cho các ngân hàng Pháp và Đức thiệt hại lần lượt là 56,9 tỷ và 23,8 tỷ USD. Ngoài ra các ngân hàng Anh, Bồ Đào Nha, Mỹ, Hà Lan, Nhật... cũng bị thiệt hại lớn. Như vậy nếu Hy Lạp vở nợ, hệ thống ngân hàng của các quốc gia này sẽ đối mặt với khoản nợ xấu lớn, ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng toàn cầu. c) Tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá. Khủng hoảng nợ Hy Lạp cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Đồng USD và đặc biệt là đồng Yên sẽ tiếp tục đà tăng mạnh so với đồng Euro do tính an toàn từ phía các đồng tiền này. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD. Do đó sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Ngoài ra, đồng USD tăng giá mạnh trong khi thâm hụt thương mại của Hy Lạp đang gia tăng, cộng với thời điểm đáo hạn của các khoản vay tín dụng ngoại tệ, sẽ gia tăng sức ép tăng rủi ro hối đoái và biến động tỷ giá vào các tháng cuối năm 2010. 21 d) Tác động đến thị trường chứng khoán châu âu và các thị trường chứng khoán lớn trên thế giới. Chỉ số DJSTOX600 đã giảm 2,9% bằng với mức điểm đầu năm 2009. Thị trường tài chính toán cầu rúng động vì đợt mất điểm lớn nhất trong một ngày của lịch sử phố Wall. Chỉ số Dow Jones xuống dưới 10000, mất 998,5 điểm vào ngày 06.05.2010. Những bất ổn của Hy Lạp đang đe dọa các nền kinh tế khác; trước hết là các tổ chức đang sở hữu tài sản Hy Lạp và kế tiếp là các quốc gia có mức thâm hụt ngân sách lớn, tỷ lệ nợ công cao như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ireland…. Và nguy cơ khởi tạo một cuộc khủng hoảng nợ toàn cầu. e) Giá vàng bùng nổ hút vốn đầu tư. Các nhà đầu tư trên thế giới đang tìm vàng như một nơi trú ẩn an toàn trước nguy cơ cuộc khủng hoảng nợ châu Âu ngày một lan rộng, làm cho giá vàng trong thời gian qua tăng mạnh, lên mức trên 1.300 USD/ounce. Điều này phản ánh nhu cầu về dự trữ an toàn hơn so với đồng tiền giấy, sau khi nhiều cá nhân và tổ chức ở châu Âu, châu Á đua nhau mua vàng, mua bạch kim và bạc. Việc giá vàng tăng cùng với xu hướng tăng mạnh của đồng USD là điều ít khi xảy ra. Rất có thể sẽ tăng tới một kỷ lục mới trong thời gian tới và tạo sự tách biệt hoàn toàn giữa giá tài sản vàng và các tài sản khác. f) Luồng vốn FDI dịch chuyển. Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn FDI trên phạm vi toàn cầu. Nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia có trình độ phát triển tương đương. Vì các nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. g) Bảo hiểu rủi ro tín dụng (CDS) xu hướng tăng lên. Vấn đề Hy Lạp làm cho các nhà đầu tư trên thế giới càng trở nên thận trọng hơn với các quốc gia có vấn nạn tương tự: 3 số liệu cảnh báo bao gồm: nợ 22 quá nhiều, thể hiện ở tỷ lệ nợ trên GDP cao; chi tiêu quá mức, thể hiện ở mức thâm hụt ngân sách lớn so với GDP; và tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm. Ví dụ Việt Nam với mức CDS là 263, Hy Lạp (321) và Iceland (466)… Điều này sẽ là một cản trở rất lớn trong việc thu hút các luồng vốn đầu tư gián tiếp, trực tiếp và cho vay từ nước ngoài. II.5 Giải pháp của Hy Lạp. Sử dụng gói vay cứu trợ của EU, IMF. Vào ngày 2/5/2010 liên minh châu âu EU và IMF đã thông qua gói cứu trợ thứ nhất cho Hy Lạp trị giá 110 tỷ EURO (tương đương khoảng 136 tỷ USD), khoản giải ngân đầu tiên trị giá 14,5 tỷ EURO đã được giải ngân cho Hy lạp vào ngày 18-05-2011 . Chính phủ Hy Lạp sẽ sử dụng khoản tiền cứu trợ này để trả 8.5 tỷ Euro nợ trái phiếu đáo hạn vào ngày 19/5/2010, thay vào đó, chính phủ Hy Lạp phải thực hiện hàng loạt các chính sách khắc khổ để cắt giảm thâm hụt ngân sách như tăng thuế,giảm lương, cắt thưởng, xa thải bớt số công chức nhà nước… Vào ngày 21-07-2011, 17 nước thuộc khu vực EUROZONE một lần nữa đã thông qua gói cứu trợ thứ 2 cho hy lạp trị giá 158,6 tỷ Euro, điều đáng chú ý trong gói cứu trợ lần này là đã có sự đóng tham gia của khu vực tư nhân, giá trị lên tới 49,6 tỷ Euro. Lãi suất 3.5%, thời gian đáo hạn có thể lên đến 30 năm. Tháng 3-2012, Hy Lạp được các chủ nợ xóa hơn 100 tỷ euro. Đánh giá: Ngay cả khi nhận được gói cứu trợ, Hy Lạp vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến việc tìm kiểm các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài hiện trạng thâm hụt ngân sách cao khiến lãi suất tăng vọt trên thị trường tài chính, Hy Lạp còn đang phải đối mặt với một nền kinh tế yếu với khả năng cạnh tranh thấp, nguyên nhân chính của làm thâm hụt các cân thương mại. Do sử dụng đồng tiền chung châu Âu nên Hy Lạp không có khả năng phá giá tiền tệ nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh. Khi nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp cao, việc thắt chắt chặt tài khóa trong khi không có khả năng nới lỏng tiền tệ, chỉ làm cho mọi thứ xấu thêm. 23 Chương III Bài học kinh nghiệm và giải pháp cho chính sách nợ công Việt nam qua cuộc khủng hoảng nợ công Hy Lạp. III.1 Thực trạng nợ công tại Việt Nam. III.1.1 Thực trạng. Để dễ hình dung quy mô của nợ công, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu % so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Tuy nhiên số liệu về nợ công/GDP hiện nay vẫn chưa được công bố một cách rõ ràng. Nợ công của Việt Nam tăng liên tục trong những năm qua, đặc biệt giai đoạn từ năm, và tiềm ẩn trong đó nhiều rủi ro. Nguồn : Tổng cục thống kê Hình 3.1 : Nợ công Việt Nam từ năm 2004-2014 Nợ công Việt Nam tăng đều từ năm 2004-2012 và có xu hướng giảm xuống từ 2012 đến nay. Trên lý thuyết mức nợ công của Việt Nam vẫn nằm trong ngưỡng cho phép, nhưng Việt Nam phải tính tới phần chìm của tảng băng, tức là những khoản nợ ngầm bao gồm: các khoản nợ ngân hàng, tiền trợ cấp hưu trí, các khoản bảo hiểm xã hội mà chính phủ sẽ phải chi trả cho người lao động hay các khoản mà chính phủ sẽ phải chi trả khi đứng ra bảo lãnh các khoản vay 24 cho những người có thu nhập thấp mà trong tương lai họ có thể không có khả năng thanh toán, hay là các khoản tự vay tự trả của các tổng công ty, tập đoàn nhà nước…. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt Nam lơ là. Việc đi vay nợ của chính phủ là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên khi tính toán nợ chính phủ thường không lượng hóa được ảnh hưởng của yếu tố lạm phát trong chi tiêu của chính phủ, chỉ tính các khoản trả lãi vay theo lãi suất danh nghĩa, nhưng thực ra phải tính theo lãi suất thực tế. Do lãi suất danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát, nên thâm hụt ngân sách đã bị phóng đại. Việc tính toán nợ công ở Việt Nam chưa thực hiện nguyên tắc quản lý thống nhất: nợ nước ngoài, nợ trong nước, nợ nước ngoài do doanh nghiệp và các địa phương tự đi vay khiến công tác quản lý nợ phân tán, không thống nhất, chi phí giao dịch, chi phí vay cao, thiếu sự phối hợp trong điều hành vĩ mô. Mặt khác do Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước nghèo, gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên các khoản vay ưu đãi ODA cũng giảm dần mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao hơn. Đồng tiền của Việt Nam mất giá khá nhiều so với tiền của những nước chúng ta vay vốn như: Nhật, EU… làm tăng thêm gánh nặng nợ công. Hậu quả: Nợ công tăng cao gây ra nhiều hậu quả: Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng trong nước giảm sút Nếu nợ trong nước lớn thì Chính phủ phải tăng thuế để trả nợ lãi vay gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Tăng thuế còn làm giảm đầu tư, kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm tốc độ tăng trưởng. Lạm phát khó kiềm chế ở mức thấp. Nợ công tăng cao cũng làm cho nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay, khi đó nền kinh tế dễ trở thành mục tiêu tấn công của các thế lực đầu cơ quốc tế. 25 |