Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

1.Tình hình các thuộc địa ở Bắc Mĩ

- Bắc Mĩ là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai màu mỡ, cư dân lâu đời.

- Trong 2 thế kỉ XVII-XVIII, thực dân Anh tiêu diệt hoặc dồn người dân (In-đi-an) về phía tây, bắt người da đen ở châu Phi sang làm nô lệ để khai khẩn đất hoang, lập đồn điền.

- Đầu thế kỉ XVIII, thực dân Anh đã thành lập được 13 bang thuộc địa ở Bắc Mĩ theo con đường tư bản chủ nghĩa.

2.Nguyên nhân của cuộc chiến tranh

Thực dân Anh tìm mọi cách ngăn cản sự phát triển công, thương nghiệp của các thuộc địa ở Bắc Mĩ (cướp đoạt tài nguyên, thuế má nặng nề. độc quyền buôn bán trong và ngoài nước). Cư dân ở các thuộc địa Bắc Mĩ, gồm phần lớn là con cháu người Anh di cư sang, mâu thuẫn gay gắt với chính quốc. Các tầng lớp nhân dân thuộc địa. bao gồm tư sản, chủ đồn điền, công nhân, nô lệ đều đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Anh.

→ Dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa thuộc địa với chính quốc.

3.Diễn biến cuộc chiến tranh

- Tháng 12 - 1773, nhân dân cảng Bô-xtơn tấn công ba tàu chở chè của Anh và ném các thùng chè xuống biển để phản đối chế độ thuế của thực dân Anh ở các thuộc địa Bắc Mĩ.

-Từ 5 - 9 đến 26 - 10 - 1774, đại biểu các thuộc địa Bắc Mĩ đã họp Hội nghị lục địa ở Phi-la-đen-phi-a, đòi vua Anh xóa bỏ các luật cấm vô lí. Nhà vua không chấp nhận.

-Tháng 4 - 1775. chiến tranh bùng nổ giữa chính quốc và các thuộc địa Bắc Mĩ.Nghĩa quân do Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn chỉ huy.

-G.Oa-sinh-tơn là một chủ nô giàu, có tài quân sự và tổ chức, được cử làm Tổng chỉ huy nghĩa quân.

-Ngày 4 - 7 - 1776. Tuyên ngôn Độc lập được công bố, xác định quyền của con người và quyền độc lập của các thuộc địa.

-Tuyên ngôn đã khẳng định : Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không thể tước bỏ. Trong số những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.

-Chiến tranh vẫn tiếp diễn. Do số lượng ít, trang bị nghèo nàn nên lúc đầu quân khởi nghĩa đã thất bại ở một số nơi. Tuy nhiên, nghĩa quân vẫn giữ được lực lượng và đánh thắng các đợt tấn công lớn của quân Anh.

-Ngày 17 - 10 - 1777, quân khởi nghĩa thắng một trận lớn ở Xa-ra-tô-ga.5000 quân Anh bị bắt làm tù binh viên tướng chỉ huy phải đầu hàng. Chiến thắng của quân khởi nghĩa làm suy sụp tinh thần quân Anh, củng cố lòng tin vào thắng lợi của nhân dân các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ. Tiếp đó, nghĩa quân thắng nhiều trận khác, buộc Anh phải kí Hiệp ước Véc-xai 1783.

Vì sao cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ được đánh giá là một cuộc cách mạng tư sản

A. Giải quyết những nhiệm vụ của một cuộc cách mạng tư sản

Đáp án chính xác

B. Giải quyết nhiệm vụ giải phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân Anh

C. Nhân dân lao động hoàn toàn được hưởng thành quả của cách mạng.

D. Thiết lập quyền thống trị của giai cấp tư sản và quý tộc mới.

Xem lời giải

Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ

Mục 1

1. Tình hình các thuộc địa. Nguyên nhân của chiến tranh

a) Tình hình các thuộc địa

- Bắc Mĩ là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai màu mỡ, cư dân lâu đời.

- Trong 2 thế kỉ XVII-XVIII, thực dân Anh tiêu diệt hoặc dồn người dân (In-đi-an) về phía tây, bắt người da đen ở châu Phi sang làm nô lệ để khai khẩn đất hoang, lập đồn điền.

- Đầu thế kỉ XVIII, thực dân Anh đã thành lập được 13 bang thuộc địa ở Bắc Mĩ theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

Lược đồ 13 bang thuộc địa của Anh

b) Nguyên nhân của cuộc chiến tranh

- Thực dân Anh ngăn cản sự phát triển của công, thương nghiệp của thuộc địa. Dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa thuộc địa với chính quốc.

Mục 2

2. Diễn biến cuộc chiến tranh

- Tháng 12 - 1773, nhân dân cảng Bô-xtơn tấn công ba tàu chở chè của Anh và ném các thùng chè xuống biển để phản đối chế độ thuế của thực dân Anh ở các thuộc địa Bắc Mĩ.

- Từ 5 - 9 đến 26 - 10 - 1774, đại biểu các thuộc địa Bắc Mĩ đã họp Hội nghị lục địa ở Phi-la-đen-phi-a, đòi vua Anh xóa bỏ các luật cấm vô lí. Nhà vua không chấp nhận.

- Tháng 4 - 1775, chiến tranh bùng nổ giữa chính quốc và các thuộc địa Bắc Mĩ. Nghĩa quân do Gioóc-giơ Oa-sinh-tơn chỉ huy.

Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

G. Oa-sinh-tơn

- Ngày 4 - 7 - 1776, Tuyên ngôn Độc lập được công bố, xác định quyền của con người và quyền độc lập của các thuộc địa.

- Ngày 17 - 10 - 1777, quân khởi nghĩa thắng một trận lớn ở Xa-ra-tô-ga. Chiến thắng của quân khởi nghĩa làm suy sụp tinh thần quân Anh, củng cố lòng tin vào thắng lợi của nhân dân các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ. Tiếp đó, nghĩa quân thắng nhiều trận khác, buộc Anh phải kí Hiệp ước Véc-xai 1783.

Mục 3

3. Kết quả và ý nghĩa cuộc Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ

a) Kết quả

- Anh công nhận nền độc lập của 13 bang thuộc địa – một quốc gia mới ra đời – nước Mỹ.

- 1787, Thông qua bản hiến pháp, củng cố vị trí của nhà nước.

b) Ý nghĩa

- Giải phóng Bắc Mĩ, tạo điều kiện cho kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển.

- Ảnh hưởng đến phong trào đấu tranh giành độc lập của nhiều nước cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX.

ND chính

Tóm tắt Chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ:Tình hình các thuộc địa, nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa cuộc Chiến tranh.

Sơ đồ tư duy những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên

Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

Loigiaihay.com

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Lý thuyết Những cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên

    Lý thuyết Những cuộc Cách mạng tư sản đầu tiên

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Hãy nêu những biểu hiện mới về kinh tế, xã hội ở Tây Âu trong các thế kỉ XV- XVII?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 4 SGK Lịch sử 8

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Trình bày diễn biến và kết quả của Cách mạng Hà Lan?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 2 trang 4 SGK Lịch sử 8

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Trình bày sự phát triển chủ nghĩa tư bản Anh và những hệ quả của nó?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận trang 5 SGK Lịch sử 8

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Trình bày những nét chính về cuộc nội chiến ở Anh?

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 6 SGK Lịch sử 8

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Tại sao thực dân Pháp xâm lược nước ta?

    - Muốn chiếm nước ta, biến nước ta thành thuộc địa của chúng

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873)

    Tóm tắt mục 2. Thực dân Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873)

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Lập bảng thống kê về các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương

    Lập bảng thống kê về các cuộc khởi nghĩa lớn trong phong trào Cần Vương

  • Cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc mỹ cũng là cuộc cách mạng tư sản vì

    Vì sao Quân triều đình ở Hà Nội đông mà vẫn không thắng được giặc

    Quân ta chủ quan, không có sự chuẩn bị đối phó với quân Pháp

Mục lục

  • 1 Nguồn gốc
    • 1.1 1651–1748: Mầm móng ban đầu
    • 1.2 1764-1766: áp thuế và thu hồi
    • 1.3 1767-1773: Đạo luật Townshend và Đạo luật Trà
    • 1.4 1774–1775: Các Đạo luật không khoan nhượng và Đạo luật Quebec
  • 2 Chiến sự bắt đầu
  • 3 Tạo hiến pháp nhà nước mới
  • 4 Độc lập và Liên minh
  • 5 Bảo vệ cách mạng
    • 5.1 Sự trở lại của Anh: 1776-1777
    • 5.2 Tù nhân
    • 5.3 Liên minh của Mỹ sau năm 1778
    • 5.4 Người Anh di chuyển về phía Nam, 1778-1783
      • 5.4.1 Cuộc đầu hàng tại Yorktown (1781)
    • 5.5 Kết thúc chiến tranh
  • 6 Hòa ước Paris
  • 7 Tài chính
  • 8 Kết luận về cuộc cách mạng
    • 8.1 Tạo ra một "liên minh hoàn hảo hơn" và quyền bảo đảm
    • 8.2 Nợ quốc gia
  • 9 Tư tưởng và phe phái
    • 9.1 Tư tưởng đằng sau Cách mạng
      • 9.1.1 Chủ nghĩa Tự do
      • 9.1.2 Chủ nghĩa Cộng hòa
      • 9.1.3 Những người ly khai Tin lành và cuộc Đại tỉnh thức
    • 9.2 Tầng lớp và tâm lý của các phe phái
    • 9.3 Vua George III
    • 9.4 Các nhà yêu nước
    • 9.5 Những người trung thành
    • 9.6 Trung lập
    • 9.7 Vai trò của phụ nữ
  • 10 Những nước tham gia khác
    • 10.1 Pháp
    • 10.2 Tây Ban Nha
    • 10.3 Người da đỏ
    • 10.4 Người Mỹ da đen
  • 11 Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng
    • 11.1 Người nước ngoài trung thành
    • 11.2 Giải thích
    • 11.3 Truyền cảm hứng cho tất cả các thuộc địa
    • 11.4 Tình trạng của phụ nữ Mỹ
    • 11.5 Tình trạng của người Mỹ gốc Phi
    • 11.6 Kỷ niệm
  • 12 Xem thêm
  • 13 Chú thích
  • 14 Tham khảo

I – Tình hình 13 bang thuộc địa trước chiến tranh cách mạng

1. Công cuộc xâm chiếm thực dân ở Bắc Mỹ

Các nhà sử học, kinh tế học tư sản đều cố chứng minh cho luận điểm đầy thiên kiến là lịch sử nước Mỹ bắt đầu từ những sự kiện phát triển địa lý của những nhà thám hiểm châu Âu, và những sự khai phá của di dân châu Âu vào những năm đầu thế kỷ XVI. Thực ra, nền văn hóa của Mỹ bắt đầu từ những cư dân bản địa là người da đỏ, mà sách vở thường gọi là người Anh điêng. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu của các nhà nhân chủng học, khảo cổ học, sử học thì người da đỏ vốn từ châu Á thiên di sang khoảng 25000 năm. Họ vượt qua eo biển Bêrinh và Alatka, rồi từ đó tràn vào Bắc Mỹ. Cho đến ngày nay, khảo cổ học chưa phát hiện được một di chỉ nào thuộc thời đại đồ đá cũ.

Những bộ lạc người da đỏ đã sống trên những vùng phì nhiêu Bắc Mỹ. Họ đã trải qua những thời kỳ phát triển với những trình độ khác nhau. Moocgan đã nhận định: tộc Irôqua, Angônkin v.v… ở miền đông sông Mitxuri đang còn trong giai đoạn thấp của thời kỳ dã man. Nhưng nói chung họ còn sống trong giai đoạn bộ lạc, đất đai sở hữu chung. Việc bầu cử dân chủ công bằng đã tuyển lựa những thủ lĩnh có tài, có khả năng đoàn kết bộ lạc và chiến đấu một cách ngoan cường chống lại sự xâm lược của kẻ đến cướp bóc. Họ làm nghề trồng tỉa, hái lượm, đánh cá và săn bắn, thích nghi với việc khai thác nguồn lợi thiên nhiên. Những kinh nghiệm trồng tỉa thuốc lá, ngô, cà chua và cả kỹ thuật đóng thuyền, chèo thuyền trên sông Bắc Mỹ cũng đã giúp ích cho những người di dân châu Âu đến đây sinh sống. Quá trình xâm thực tàn bạo của thực dân châu Âu bắt đầu từ thế kỷ XVI, sau cuộc thám hiểm của Crixtôp Côlôngbô.

Người Tây Ban Nha là người đầu tiên đặt chân lên Phloriđa. Và đến giữa thế kỷ XVI, họ đi sâu vào lục địa châu Mỹ qua Carolina tiến đến bờ sông Mitxixipi rồi sau đó vào vùng Tếchdát năm 1635. Vài năm sau, 1640 người Tây Ban Nha tới miền Niu Mêhicô, Aridônna, Kandát và Caliphoócnia.

Đầu thế kỷ XVI, người Pháp bắt đầu chú ý xâm thực vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở Canada, và năm 1540, đặt thương điếm đầu tiên của Pháp bên bờ sông Hútsôn. Sau đó người Pháp tiến vào vùng đất hồ Giócgiơ (vùng tiểu bang Niu Oóc hiện nay), thành lập vùng đất Ludiana thuộc Pháp vào thế kỷ XVII.

Hồi đó, Hà Lan là nước thực dân có tiềm lực. Ngay từ đầu thế kỷ XVII, công ty Đông Ấn Hà đã sang Bắc Mỹ và mở mang công cuộc khai hóa. Năm 1614 trên vùng Niu Oóc ngày nay, người Hà Lan đã thành lập đất

Niu Amxtécđam. Họ xây dựng cứ điểm trên vùng châu thổ các sông Hútsôn, Đơlaoa và buôn bán da thú, thuốc lá, Mỹ trở thành nơi buôn bán quan trọng của Hà Lan.

Vùng Bắc Mỹ khi đó bị coi như vùng đất vô chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm chiếm. Thụy Điển cũng tham gia công cuộc xâm thực này. Cuối những năm 30 thế kỷ XVII, họ xây dựng nên vùng đất Thụy Điển mới ở giữa thác của con sông Trenton và mũi Henlopen. Họ dựng đồn trú ở gần địa điểm thành phố Uynmintơn ngày nay. Nhưng người Hà Lan đã đánh bại người Thụy Điển vào năm 1655.

Tuy vậy công cuộc xâm thực của Anh là mạnh mẽ và có hiệu quả hơn cả. Cuộc đấu tranh gay gắt trong nước Anh trước cuộc cách mạng 1640 là nguyên nhân tạo nên một làn sóng di cư rộng lớn ra nước ngoài tìm đất sống. Họ ra đi vì cuộc sống kinh tế như nông dân, dân nghèo thành thị; có người ra đi vì tư tưởng bất đồng giữa tín đồ Thanh giáo và Anh giáo; cũng có trường hợp vì muốn tìm một cuộc sống mới thỏa mãn niềm khao khát về một miền đất lạ. Nhưng nguồn di thực chủ yếu vẫn là nông dân mất đất, không còn cách sinh sống trên đất Anh.

Cuộc khai khẩn thực dân của Anh phát triển mạnh mẽ vào đầu thế kỷ XVII. Năm 1607 người Anh chính thức đặt chân lên vùng đất Viêcginia. Những cuộc di thực của Anh đối với Bắc Mỹ trở nên mạnh mẽ vào những năm 20 thế kỷ XVIII, khi chính sách tước đoạt ruộng đất ở Anh của giai cấp tư sản quý tộc lên tới đỉnh điểm. Đến năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa. Năm 1754 trên đất thực dân Anh ở Bắc Mỹ đã có tới 1,3 triệu người. Tiếng Anh trở thành tiếng được phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ.

Nguyên nhân chính làm cho người Anh thắng lợi trong công cuộc xâm thực là tính ưu thắng của nền kinh tế, xã hội của nước Anh lúc bấy giờ. Vào thế kỷ XVII-XVIII, nước Anh đã vượt qua các nước khác về phát triển kinh tế; điều kiện đó làm cho nước Anh chiếm ưu thế trong công cuộc bành trướng ở Bắc Mỹ. Tư sản thương nghiệp Anh chuyên chở hàng hóa của Anh đến châu Mỹ và từ châu Mỹ mang về những nguyên liệu đang cần cho một nền công nghiệp phát triển. Bắc Mỹ có các loại gỗ cần cho công nghiệp đóng thuyền của Anh. Điều này bảo đảm cho Anh có hạm đội mạnh giữ vững được địa vị trên đại dương.

Một yếu tố quan trọng khác nữa là cuộc cách mạng ruộng đất ở Anh đã diễn ra một cách tàn bạo và triệt để. Người nông dân Anh mất đất phải tìm đường sang châu Mỹ. Hàng ngàn nông dân Anh ồ ạt di cư sang Mỹ vào thế kỷ XVIII phải canh tác nông nghiệp, tạo thêm thế vững cho công nghiệp phát triển ở vùng Bắc Mỹ sau này.

Nền chính trị ở Anh hồi thế kỷ XVII cũng làm cho công cuộc di dân Anh mạnh mẽ hơn. Cả những người trong tầng lớp tư sản, quý tộc chống đối cũng rời bỏ nước Anh đi khẩn thực. Tất cả những yếu tố trên làm cho cơ sở của Anh ở Bắc Mỹ mạnh hơn, có xu hướng phát triển thành một xã hội hoàn chỉnh. Tất nhiên những yếu tố đó cũng đã tạo nên tiền đề cho một cuộc cách mạng tư sản.

2. Những tiền đề của cuộc cách mạng giải phóng và dân chủ

a) Nông nghiệp Bắc Mỹ và xu hướng phát triển tư bản chủ nghĩa

Vào thế kỷ XVII-XVIII, nước Anh coi Bắc Mỹ chỉ là vùng nông nghiệp phụ thuộc chính quốc. Đối tượng bóc lột của Anh ở đây là người da đỏ, nô lệ da đen và cả những người dân di thực. Nhiệm vụ hàng đầu của Bắc Mỹ là cung cấp các loại nguyên liệu và lương thực cho nước Anh.

Ở các vùng phía nam như Viếcginia. Mêrilen, Carôlinna chuyên trồng thuốc lá, trồng lúa và chăn nuôi. Những sản phẩm này làm ra để xuất khẩu và phục vụ chính quốc. Ở đây đã xuất hiện nhiều đồn điền rộng lớn, có đồn điền rộng tới 26000 acrơ.

Những con số xuất khẩu thuốc lá, gạo, chàm của các vùng trên có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế đã chuyên môn hoá.

Năm 1700, Viêcginia xuất cảng thuốc lá gần 4,6 triệu kg mỗi năm.

Năm 1775, Saclơxtôn xuất cảng gạo đạt 125.000 bao mỗi năm.

Năm 1775, nam Carôlinna xuất cáng 1.150.662 phunchàm.

Ở vùng Bắc nước Anh mới (New England), điều kiện khí hậu và đất đai không thuận lợi bằng miền Nam, người ta trồng ngô, lúa mì đen; còn ở miền Trung thì trồng lúa mì.

Việc canh tác nông nghiệp chủ yếu dựa vào sự bóc lột sức lao động của nô lệ và dân nghèo làm thuê.

Quý tộc tư sản Anh sang Bắc Mỹ muốn duy trì những tàn dư chế độ phong kiến ở đất mới để trở thành đại địa chủ. Vua Anh phân phong những vùng đất mới cho quý tộc, có vùng rộng lớn tới hàng vạn kilômet vuông.

Ví dụ: Năm 1681, vua Sáclơ XI đã cho Uyliam em phần lớn đất Penxinvania ngày nay rộng trên 6 vạn kilômét vuông. Những thống đốc thường là những đại địa chủ quý tộc có đến hàng vạn ha đất đai như thống đốc bang Viêcginia.

Việc tập trung ruộng đất trong tay quý tộc và lối bóc lột phong kiến cùng với sự bóc lột kiểu nông nô, nô lệ đã làm cho mâu thuẫn trong nông thôn Bắc Mỹ trở nên gay gắt.

Trước tiên, nông dân nghèo di cư sang Bắc Mỹ bất chấp luật lệ tàn khốc cột chặt họ vào đất đai của địa chủ tư sản đã tự động nổi dậy chống việc nô dịch hoá, chống nạn cho vay lãi v.v…

Ví dụ: Năm 1676 ó Viêcginia nổ ra cuộc khởi nghĩa của Bécon; năm 1689-1691 có cuộc khởi nghĩa của Leide ở Niu Ioóc; ở Niu Inglân có cuộc khởi nghĩa nông dân năm 1689; năm 1765 ớ Penxinvania còn nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt hơn, rộng lớn hơn.

Những vùng đất trống ở phía tây còn nhiều, nông dân tá điền, nông dân nghèo tự động đi về phía tây khai khẩn. Họ tạo thành phong trào của những người “Xquatơ”[4] Bọn đại địa chủ quý tộc tìm cách ngăn cản và phá hoại những cơ sở sinh sống của người “Xquatơ”. Năm 1763 vua Anh ra sắc lệnh cấm khẩn thực vùng đất đai rộng lớn bên kia dãy núi Alêgơnít và lưu vực sông Mitxixipi. Năm 1774 nhà vua ra lệnh cấm cư dân 13 bang thuộc địa không được di cư về phía tây. Mâu thuẫn này trở nên gay gắt, sự xung đột giữa chế độ “phácmơ” đang hình thành và phát triển theo yêu cầu của kinh tế Bắc Mỹ với chế độ phong kiến do bọn quý tộc ruộng đất đang cố bám chặt đã tạo điều kiện cho sự ra đời chủ nghĩa dân chủ cách mạng Mỹ. Trong tình hình đó, Đại hội lục địa lần thứ nhất vào tháng 9-1774 ở Philađenphi được triệu tập.

Chế độ đồn điền đã làm cho kinh tế nông nghiệp Mỹ mang theo đặc trưng riêng. Chính yếu tố này làm cho lịch sử hình thành nước Mỹ bắt đầu từ chế độ nô lệ, chứ không phải từ sự tự do. Chế độ nô lệ đã là một điểm xuất phát của kinh tế Mỹ, của sự làm giàu của giai cấp tư sản Mỹ.

Nói đến chế độ nô lệ đồn điền trước tiên phải nói đến nô lệ da đen. Sự bóc lột nô lệ da đen đặc biệt phát triển ở vùng kinh tế miền Nam. Nó giữ vai trò quan trọng trong nghề trồng bông ở miền Nam và ngay cả trong công nghiệp đóng tàu, công nghiệp dệt…

Những người nô lệ đầu tiên bị thực dân Hà Lan chở sang vào năm 1619. Không lâu sau, việc buôn bán nô lệ ra đời đem lại lợi nhuận lớn có khi lãi tới 1000%. Những người nô lệ da đen bị khinh miệt như người hạ đẳng. Họ phải lao động kiệt lực và nhận khẩu phần vô cùng ít ỏi. Họ có thể bị giết, bị đánh đập và đem bán tùy ý chủ. Số dân nô lệ ở 13 bang thuộc địa vào năm 1770 đã có tới 462.000 người, có bang như nam Carôlinna chiếm 60%, cư dân, Viếcginia 40%, cư dân.

Chế độ nô lệ không loại trừ người da trắng. Họ là những tù nhân, con nợ, những người bị tình nghi về chính trị và số đông trẻ em bị bắt cóc bán sang thuộc địa. Họ hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ nô trong 21 năm, hoặc từ 4 đến 7 năm.

Đất đai khai khẩn ở Mỹ thấm mồ hôi và máu của người nô lệ. Những người nô lệ đã chết tới hàng triệu để làm giàu cho bọn chủ. Chế độ nô lệ đã loại trừ chế độ lao động làm thuê, mối quan hệ mới xuất hiện cùng với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng kết quả của lao động lại hoàn toàn phục vụ cho thị trường tư bản. Chính điều này làm hoạt động của chế độ nô lệ lại phục vụ cho mục đích kinh doanh. Đó là đặc trưng của chế độ nô lệ Mỹ. Nhà tư bản, chủ đồn điền và chủ nô đã hóa thân thành một. Sự tàn bạo của nó cũng vì đó nhân lên gấp bội. Nô lệ đồn điền trở thành một dạng đặc biệt trong quan hệ nông nghiệp của nước Mỹ trong quá trình đẩy nhanh sự tích lũy tư bản.

b) Sự phát triển kinh tế công thương nghiệp

Các ngành công nghiệp của Bắc Mỹ phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của thị trường nội địa và chính quốc. Ngành đóng thuyền phát triển đặc biệt thuận lợi. Ở đây có nhiều gỗ, ngoài phần khai thác chở về chính quốc cho công nghiệp, các ngành phục vụ hàng hải, vận chuyển đường sông cũng phát triển.

Từ đầu thế kỷ XVII (1624) ở Nin Inglân đã đóng hai thuyền chuyên chở trên sông. Năm 1631 đóng chiếc thuyền biển đầu tiên. Giữa thế kỷ XVII đã chế tạo những loại thuyền 300 tấn. Đến thời cách mạng Anh, số tàu thuyền của Anh, có tới 30% đóng ở Bắc Mỹ.

Những ngành công nghiệp nặng khác như khai mỏ, luyện sắt thép đều tăng tiến. Giữa thế kỷ XVIII đã có 4 xí nghiệp luyện kim, 5 lò nấu thép. Những thuộc địa miền Trung và Bắc Mỹ đã sản xuất được sắt tấm, đinh, neo thuyền. Song ngành gia công kim khí đã bị Anh kìm hãm vì sợ cạnh tranh với chính quốc.

Những ngành công nghiệp dệt vải, dệt len, nghề thuộc da, đóng giày cũng phát triển. Đặc biệt công nghiệp nấu rượu được mở mang, không chỉ phục vụ cho nội địa mà còn là hàng trao đổi, buôn bán có lợi. Họ đem cả rượu sang châu Phi để đổi lấy nô lệ da đen.

Ngành thương nghiệp ở 13 bang thuộc địa cùng với công nghiệp, nông nghiệp sản xuất hàng hóa đã phát triển. Đặc biệt thương nghiệp phát triển ở Niu Inglân. Ngành buôn bán da lông thú, ngành đánh cá, khai thác gỗ, thuốc lá, lúa mì, chàm đều chiếm vị trí quan trọng. Giá trị xuất khẩu không ngừng tăng.

Trong những năm 1700 – 1710, trung bình mỗi năm 13 bang thuộc địa đã xuất sang Anh số hàng trị giá 265.783 bảng Anh. Nhưng 50 năm sau, giá trị hàng xuất khẩu của thuộc địa Bắc Mỹ lên lới 1.044.591 bảng.

Thuộc địa còn buôn bán trực tiếp với các nước Tây Ban Nha, Pháp, Hà Lan, Tây Ấn.

Nhưng công thương nghiệp thuộc địa không tránh khỏi mâu thuẫn với chính quốc. Sự cạnh tranh dẫn tới việc can thiệp của chính quốc nhằm hạn chế sự phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Khuynh hướng của các thuộc địa muốn tách khỏi sự ràng buộc phi lý với nền kinh tế Anh ngày càng rõ rệt. Chính phủ Anh tìm mọi cách ngăn chặn sự phát triển công thương nghiệp Bắc Mỹ, muốn các thuộc địa chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc và là vùng cung cấp nguyên liệu, thực phẩm cho Anh. Do vậy, nhiều đạo luật ban hành nhằm cấm phát triển công thương nghiệp thuộc địa. Năm 1750, “đạo luật về sắt” cấm xây dựng nhà máy cán sắt thép, xưởng rèn lớn, lò nấu thép. Chính phủ Anh còn ngăn cấm Bắc Mỹ buôn bán với các nước khác cũng như giữa các thuộc địa với nhau. Chính sách thuế khóa ngày càng gây khó khăn lớn cho sản xuất công nghiệp và thương nghiệp Bắc Mỹ. Sự chống đối lại chính quốc để phát triển là điều tất nhiên. Giai cấp địa chủ tư sản, tư sản công thương nghiệp bất mãn trước những trở lực do sự cạnh tranh của tư sản chính quốc gây nên. Mâu thuẫn ngày càng sâu sắc giữa thuộc địa và chính quốc, giữa đòi hỏi phát triển của Bắc Mỹ và sự ngăn cản phi lý của chính quyền Anh nhất định sẽ dẫn tới cuộc đấu tranh quyết liệt

c) Chính sách thống trị của Anh và sự hình thành dân tộc tư sản Bắc Mỹ

Về tổ chức chính trị, thực dân Anh chia các thuộc địa Bắc Mỹ thành hai loại. Những bang được hưởng đặc quyền của nhà vua như: Mêrilen, Rốtailen, Connêchticớt, Penxinvania, Đơlaoa là những bang tự trị. Ở các bang khác, nhà vua và chính phủ Anh trực tiếp cử các thống đốc cai trị.

13 bang thuộc địa không có luật pháp riêng mà phải tuân theo luật pháp Anh. Đại diện của nhà vua nắm quyền chỉ huy quân đội, hải quân, chọn nhân viên hành chính. Việc bầu cử chỉ hạn chế trong tầng lớp quý tộc giàu có chiếm từ 2 đến 9% dân cư. Những người nô lệ, người da đỏ đều không có quyền công dân. Quyền tự do dân chủ của dân tự do, công nhân và ngay cả các “phácmơ” cũng rất hạn chế.

Cư dân Bắc Mỹ là dân di thực, vốn thích sống tự do ở những vùng đất hoang. Họ không có thói quen kính trọng nhà vua. Họ không có quyền cử đại biểu trong nghị viện Anh nên họ cũng cho rằng mình không có nghĩa vụ nộp thuế. Trong lúc đó, từ sau năm 1763, chính phủ Anh lại tăng thêm các yêu sách về tài chính, tập trung vào việc thu thuế. Bọn thống đốc, bọn chúa đất thực dân chuyên chế độc đoán là lực lượng bảo thủ phản động chống lại dân chủ tự do. Nhưng một bộ phận chủ đồn điền, các nhà kinh doanh, trí thức tư sản vì quyền lợi của mình cũng có xu hướng dân chủ.

Thành phần cư dân thuộc địa vào thế kỷ XVIII cũng gia tăng những yếu tố mới. Cùng với người Anh có người Đức, Hà Lan, Thụy Điển, Ailen. Những nguồn gốc khác nhau làm cho họ không thể nào quen với trật tự của Anh. Họ quần tụ với nhau và tạo nên một cộng đồng mới, dần dần dùng ngôn ngữ chung là tiếng Anh. Ngay cả người gốc Anh sinh sống ở Bắc Mỹ cũng nảy sinh mối mâu thuẫn đòi tách khỏi chính quốc.

Yếu tố quyết định sự hình thành dân tộc ở Bắc Mỹ chính là nền kinh tế phát triển toàn diện đã dẫn tới khả năng tự chủ. Thị trường dân tộc dần dần hình thành. Sự trao đổi giữa các thuộc địa đòi hỏi sự thống nhất giá cả, luật lệ và thuế khóa. Việc phát triển giao thông đường sá, bưu điện làm cho 13 bang thuộc địa gắn bó với nhau hơn. Sự gần gũi về quyền lợi và sự phát triển cùng trên một dải đất đã khiến cho những biến động xã hội, chính trị đều tác động đến nhau. Cư dân thuộc địa đã bắt đầu hình thành ý thức về vùng lãnh thổ riêng. Phong trào của Bêcơn ở Viếcginia năm 1676 đã được sự ủng hộ của Carôlinna Bắc. Cuộc đấu tranh của các “phácmơ” ở Carôlinna Bắc được sự tiếp sức của nhân dân vùng Niu Inglân.

Sự phát triển kinh tế, xã hội đã thúc đẩy nền văn hóa ở Bắc Mỹ phát triển. Các trường học, báo chí, văn nghệ, triết học đều phát triển, tạo nên một nền văn hóa Mỹ tách dần với chính quốc. Tâm lý Mỹ được hình thành trong quá trình sinh tụ trên vùng đất mới giữa người Anh, Pháp, Đức, Hà Lan v.v…

Như vậy, sau một thời gian dài di thực, những người dân Bắc Mỹ có nguồn gốc nhiều quốc tịch khác nhau đã trở thành một khối cộng đồng ổn định, thành lập trong quá trình lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng nói, về lãnh thổ, về sinh hoạt kinh tế và cấu tạo tâm lý biểu hiện trong cộng đồng văn hóa. Như vậy là một dân tộc đã được hình thành ở Bắc Mỹ với những điều kiện vững chắc của nó. Cuộc đấu tranh giành thắng lợi cho một quan hệ xã hội mới là điều không thể tránh khỏi. Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng quần chúng nông dân, thợ thủ công, nô lệ trở thành lực lượng chính, giai cấp tư sản dân chủ là bộ phận lãnh đạo phong trào đấu tranh.

d) Mâu thuẫn dẫn lới chiến tranh

Sự lớn mạnh về kinh tế và tiềm năng phát triển dồi dào về mọi mặt làm cho Bắc Mỹ ngày càng mâu thuẫn sâu sắc với chính quốc. Chế độ nô lệ da đen, da trắng và sự bóc lột lao động trở thành lực cản sự phát triển xã hội. Nhân dân đấu tranh đòi giải phóng, đòi tự do phát triển kinh tế và văn hóa. Nhưng nước Anh không muốn mất những nguồn lợi đã từng khống chế, muốn Bắc Mỹ luôn là thuộc địa của mình. Tầng lớp tư sản, chủ đồn điền và tiểu tư sản ở Bắc Mỹ trở thành lực lượng tham gia lãnh đạo cuộc chiến tranh giành độc lập.

Vào tháng 5-1756 cuộc chiến tranh giành giật đất đai ở Bắc Mỹ, Anh và Pháp bắt đầu, lịch sử gọi là chiến tranh Bảy năm (1757-1763). Trong cuộc chiến tranh này, Anh nắm quyền bá chủ trên biển, đã huy động được tiềm năng quân sự trội hơn nên đã chiến thắng. Năm 1763 Pháp thất bại phải ký hòa ước Pari (10-2-1763), theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì mối liên quan ủng hộ Pháp trong cuộc chiến tranh này, Tây Ban Nha cũng phải mất cho Anh vùng Phloriđa.

Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mỹ, Anh tăng cường chế độ cai trị chuyên chế.

Từ những năm 50 của thế kỷ XVII (1651), luật hàng hải giành độc quyền chuyên chở sản phẩm Bắc Mỹ sang Anh và ưu đãi hàng Anh được nhập vào Bắc Mỹ đã làm tăng mâu thuẫn giữa Anh với tư bản Mỹ. Đạo luật về ruộng đất năm 1763 ngăn cấm dân di thực đi về phía tây đến vùng châu thổ sông Mitxixipi. Cuộc đấu tranh chống lại đạo luật ruộng đất diễn ra quyết liệt. Những người buôn da và lông thú, những chủ đầu cơ đất, những kiểu dân cùng đường đang hy vọng một khoảnh đất, nay bị đạo luật khắc nghiệt của chính quốc ngăn trở, nên rất bất mãn.

Vào năm 1764, các sắc luật về thuế mới đánh vào hàng nhập cảng, về việc chặn bắt buôn lậu, về thuế đường nhập khẩu, và việc cấm thuộc địa phát hành tiền tệ đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quốc và thuộc địa ngày thêm gay gắt.

Nhân dân Bắc Mỹ càng bất bình hơn khi chính phủ Anh đặt ra thuế tem (Stemp act) đánh vào các kiện hàng nhập khẩu. Thuế tem đụng chạm đến mọi hoạt động kinh doanh và ngay cả đối với các loại văn hóa phẩm. Thực dân Anh muốn bắt người dân Mỹ đóng góp một số tiền chừng 100.000 bảng Anh để có thể duy trì một đạo quân 10.000 người. Việc đánh thuế tem gây nên mối công phẫn lớn. Ngòi lửa đấu tranh đầu tiên bùng lên ở Bôxtơn. Những nhân viên phụ trách ngành này bị quần chúng đấu tranh, đánh đập, bôi nhựa đường dính lông chim đầy người. Các cơ quan đánh thuế tem bị phá hủy. Bôxtơn là thủ phủ của Masaxuxét phát đi tín hiệu đấu tranh. Phong trào dấy lên khắp đất nước.

Căn cứ theo đề nghị của bang Masaxuxét, đại hội bàn về thuế tem của các thuộc địa được triệu tập ở Niu Oóc ngày 7-10-1765. Đại hội gồm đại biểu 9 bang về dự và quyết nghị không nộp các thứ thuế do Quốc hội Anh quyết định. Đó là sự phản kháng nhằm đòi quyền tự quyết về kinh tế. Cuộc đấu tranh làm cho chính quyền Anh phải bãi bỏ thuế tem, song lại thay bằng thứ thuế khác. Năm 1767 Anh lại ban hành luật về thuế chè và các thứ thuế khác. Nhưng nhân dân thuộc địa phản đối quyết liệt, chính phủ Anh chỉ còn giữ lại thuế chè.

Trong cuộc đấu tranh của nhân dân, khẩu hiệu: “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn hay là chết.” thành ngọn cờ tập hợp lực lượng. Những hội kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng. Tổ chức có tính chất tiến bộ lúc bấy giờ là “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty). Nhiệm vụ của Hội là đấu tranh chống ách áp bức của nhà vua và Quốc hội Anh, phản ánh yêu cầu thống nhất của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh. Chính vì vậy, thành phần tham gia tổ chức khá rộng rãi. Giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công nhân, thợ thủ công, người đánh cá, trí thức tiểu tư sản đều gia nhập Hội. Tiêu biểu cho tư tưởng tự do là Tômát Ghépphécsơn (1743-1826).

“Những người con tự do” lấy tư tưởng của Lôcke và của Giôn Minton (J. Locke, John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản làm mục tiêu đấu tranh. Tác phẩm của Lôcke “Tiểu luận về chính quyền dân sự” xuất bản năm 1690 đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mỹ một nội dung lý thuyết về nhà nước tư sản. Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh lan sang Mỹ, được chấp nhận và được áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ của nhà nước là bảo vệ tính mạng, tự do và tài sản của nhân dân. Quyền lực chính trị là của dân và dân ủy thác quyền lực đó cho chính phủ. Chính phủ chỉ là đại diện của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu chính phủ vi phạm quyền “tự nhiên” của công dân thì công dân có quyền và trách nhiệm phải lật đổ chính phủ.

Những phần tử tư sản, địa chủ có quyền lợi kinh tế mâu thuẫn với chính quốc đã hình thành tư tưởng đối lập chính quyền Anh. Đại diện cho tầng lớp này là Oasinhtơn (Washington, 1732-1799). Bản thân ông là một chủ đồn điền – chủ nô giầu có ở Viêcginia.

Từ năm 1767 các loại thuế chè, rượu, hoa quả v.v… ngày càng cao. Việc kiểm soát tàu buôn ngặt nghèo và việc tăng cường quân đồn trú khống chế thuộc địa một cách gắt gao đã đẩy nhanh quá trình cách mạng hóa quần chúng thuộc địa.

Sự kiện chè Bôxtơn bùng lên thành ngọn lửa trực tiếp của cuộc chiến tranh giành độc lập Bắc Mỹ mà thực chất là cuộc cách mạng tư sản dân chủ, một cuộc cách mạng mang tính chất đấu tranh cho tự do.