Bài học chớp thời cơ và vận dụng thời cơ - nghệ thuật của đấu tranh cách mạng(ĐCSVN) - 73 năm trước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám, đánh đổ thực dân, phong kiến; thành lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những yếu tố góp phần làm nên thắng lợi to lớn là bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ cách mạng.
Bài học về chớp thời cơ và vận dụng đúng thời cơ Show
Để có thể tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cả một quãng thời gian dài vô cùng gian khó của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng các đồng chí lãnh đạo tiền bối tiêu biểu như: Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, Trần Đăng Ninh, Chu Văn Tấn, v. v… cùng các lực lượng khác như: Công nhân, trí thức, tư sản yêu nước, nông dân, phụ lão, phụ nữ, thanh niên… hoạt động cách mạng trước đó gần hai chục năm, kể từ đầu năm 1925, khi đồng chí Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị và thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc)[1]. Tính từ năm 1925 cho đến năm 1945 là 20 năm chuẩn bị. Nhưng khi thời cơ đến, những chiến sỹ cách mạng tiên phong đã thổi bùng lên tinh thần yêu nước vô cùng mãnh liệt của toàn thể dân tộc Việt Nam, quyết rũ khỏi kiếp bùn đen nô lệ, áp bức; đập tan xiềng xích kìm kẹp, áp bức, bóc lột của phong kiến, thực dân; giành lại độc lập, tự do của toàn thể dân tộc Việt Nam. Từ khi “Mệnh lệnh khởi nghĩa” (ngày 12/8/1945)[2] và “Quân lệnh số 1” (ngày 13/8/1945)[3] của Ủy ban chỉ huy lâm thời Khu Giải phóng tại Tân Trào (Tuyên Quang) được phát đi, cho đến khi Tổng khởi nghĩa thành công trên cả nước, ngày 28/8/1945, và Lễ Độc lập tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 2/9/1945, đã diễn ra trong 22 ngày. Mất 20 năm dày công chuẩn bị để thực hành thành công trong 22 ngày. Và sự thành công ấy chính là do những người lãnh đạo cuộc cách mạng đã chớp được đúng thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Thời cơ ấy là gì? Thứ nhất, đó là bắt đầu từ sự kiện ngày 12/8/1946, sau khi nhận được tin phát xít Nhật Bản đã bị thua to trên hầu khắp các chiến trường châu Á - Thái Bình Dương trong thế chiến II, nên phải gửi công hàm cho các nước Đồng minh đề nghị ngừng bắn. Bằng nhãn quan chính trị nhạy bén, tầm nhìn chiến lược, nắm bắt thời cuộc kịp thời, đồng chí Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã nhóm họp ngay tại Tân Trào để quyết định Tổng khởi nghĩa vũ trang trong cả nước. Ngay sau cuộc họp, “Mệnh lệnh khởi nghĩa”đã được phát ra. Chiều tối ngày hôm sau, 13/8/1945, đang trong lúc Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp để nhận định tình hình, phân công nhiệm vụ chỉ đạo khởi nghĩa vụ trang, thì tiếp tục nhận được thêm một tin rất quan trọng, đó là phát xít Nhật đã bại trận và chuẩn bị đầu hàng quân Đồng minh. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh đã thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc; đồng thời soạn thảo “Quân lệnh số 1”. Đến 23 giờ đêm cùng ngày, bản “Quân lệnh số 1” hoàn thành và được phát đi ngay, hạ lệnh Tổng khởi nghĩa trên toàn quốc. Ngày 14/8/1945, sau khi nghe tin Mỹ ném bom nguyên tử xuống thành phố Hirôsima của Nhật Bản, đồng chí Hồ Chí Minh đề nghị họp Hội nghị toàn quốc của Đảng tại Tân Trào. Hội nghị đã nhận định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”. Trên cơ sở đó, đồng chí Hồ Chí Minh đã chỉ thị: “Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút. Tình hình sẽ chuyển biến nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội”[4]. Tại sao lại phải tiến hành Tổng khởi nghĩa ngay lúc đó là vì đồng chí Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã nhận định và nắm bắt được tình hình có sự chuyển biến nhanh chóng: phát xít Nhật đã chết gục theo phát xít Đức; quân đội Nhật đã và đang tan rã, bị tước vũ khí trên khắp các chiến trường; quân Đồng minh sắp kéo vào Đông Dương. Vì vậy nếu không khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, mà để đến khi quân Đồng minh kéo vào nhận bàn giao chính quyền từ tay quân Nhật, thì nhân dân ta không thể tiến hành khởi nghĩa được nữa, vì lúc này Việt Minh đang cùng phe với quân Đồng minh. Thứ hai, sự kiện Chính phủ cách mạng lâm thời yêu cầu vua Bảo Đại thoái vị và tiếp nhận sự thoái vị của nhà vua (ngày 30/8/1945 tại Huế) cũng là việc lực lượng cách mạng đã chớp thời cơ, tranh thủ thời cơ và vận dụng đúng thời cơ. Việc vua Bảo Đại thoái vị đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền phong kiến; đồng thời triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta. Thứ ba, sự kiện ngày 2/9/1945 tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể nhân dân Việt Nam và với thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do đã ra đời; Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã chính thức ra mắt trước quốc dân đồng bào. Nếu chậm trễ không tuyên bố độc lập, chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào thì dù có cướp được chính quyền cũng phải bàn giao lại cho quân Đồng minh tiếp quản. Vì vậy, việc Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục chớp thời cơ, khẩn trương chỉ đạo sớm tiến hành tổ chức Lễ Độc lập liền sau khi cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công trên cả nước chính là nhằm ngay lập tức khẳng định chủ quyền của nhân dân Việt Nam trước các thế lực đế quốc, phản động đội lốt dưới danh nghĩa quân Đồng minh. Tóm lại, Cách mạng Tháng Tám và Lễ Độc lập chỉ có thể thực hiện thành công trong khoảng thời gian 22 ngày ấy. Nếu Tổng khởi nghĩa diễn ra trước ngày 12/8/1945 sẽ không được vì khi ấy phát xít Nhật vẫn còn khá mạnh, chưa chịu ngừng bắn và đầu hàng quân Đồng minh. Còn nếu Lễ Độc lập tuyên bố và khẳng định chủ quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra muộn hơn sau ngày 2/9/1945 cũng không được vì khi ấy quân Anh và quân Tưởng đã vào nước ta giải giáp, tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật. Cách mạng Tháng Tám thành công và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm rung chuyển cả Đông Nam Á, châu Á, châu Phi và nhiều khu vực khác trên thế giới; tạo ra làn sóng cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giành độc lập, tự do của các nước thuộc địa như: Inđônêxia cùng giành được độc lập trong tháng 8/1945; Ấn Độ giành độc lập năm 1947; Mianma giành độc lập năm 1948; Marôc giành độc lập năm 1956; Malaixia giành độc lập năm 1957; Ănggôla giành độc lập năm 1961; Angiêri giành độc lập năm 1962… Cần tiếp tục phát huy bài học về chớp thời cơ và vận dụng thời cơ trong tình hình mới Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng chính là tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để dẫn đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu”, chính thức đặt dấu chấm hết cho gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam. Hay trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân và dân ta cũng đã nhiều lần thực hiện thành công bài học về chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ. Điển hình là năm 1972, chúng ta đã chớp được thời cơ nội bộ chính phủ Mỹ có xáo trộn, phong trào phản đối chiến tranh trong nhân dân Mỹ dâng cao, kết hợp với quân ta quyết tâm giành nhiều thắng lợi quan trọng trên chiến trường Việt Nam nên đã buộc chính phủ Mỹ phải rút quân đội về nước. Rồi đến tháng 3/1974, khi quân ta giành được thắng lợi và làm chủ Tây Nguyên, quân Ngụy bắt đầu tan rã, đã làm xoay chuyển tình thế chiến trường có lợi cho ta. Ngay lập tức, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương đã chớp thời cơ rút ngắn kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam từ 2 năm xuống còn 1 năm. Cuối cùng là thực hiện Tổng tiến công và nổi dậy, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 30/4/1975. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước về sau này, chúng ta cũng đều nhiều lần vận dụng thành công bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ. Năm 1986, Trung ương Đảng đã kịp thời nắm bắt tình hình, tận dụng thời cơ có sự chuyển biến trong lý luận và nhận thức để tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam thoát ra khỏi những khó khăn của thời kỳ bao cấp và ảnh hưởng của chiến tranh. Năm 1991, những biến cố chính trị ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã tạo ra cho chúng ta những thách thức rất lớn, nhưng chúng ta đã vượt qua thử thách, nắm bắt được thời cơ, chuyển hóa khó khăn thành cơ hội để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng cũng uyển chuyển trong ngoại giao để mở rộng quan hệ đối với nhiều nước trên thế giới. Những năm sau đó, Việt Nam cũng đã nắm bắt tốt thời thế để gia nhập ASEAN năm 1995; cùng trong năm 1995, Việt Nam đồng ý bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ; năm 2007 gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); được bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc năm 2007… Hiện nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 quốc gia thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ). Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao gần 200 quốc gia với nhiều cấp độ khác nhau, trong đó có quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia gồm: Nga (2001), Ấn Độ (2007), Nhật Bản (2006), Trung Quốc (2008), Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Anh (2010), Đức (2011), Italia, Thái Lan, Inđônêxia, Xinhgapo, Pháp (2013); quan hệ đối tác toàn diện với 4 quốc gia gồm Ôtxtrâylia (2009), New Zealand (2010), Đan Mạch, Hoa Kỳ (2013); và đối tác chiến lược theo lĩnh vực với Hà Lan[5]. Đây là những cơ hội rất lớn giúp nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế. Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội mới luôn có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi. Trung ương Đảng ta đã nắm bắt rất rõ quy luật vận động ấy, từ đó thường xuyên, kịp thời có những nhận định, phân tích, định hướng, chỉ đạo mang tính chiến lược. Gần đây nhất, trong Báo cáo chính trị Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải quyết tâm, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn”[6]. Vì thế cần phải “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”[7]. Một trong những yếu tố giúp chúng ta nhìn nhận, phân tích, đón bắt, tận dụng tốt thời cơ chính là nhân tố con người. Vì vậy, trong bối cảnh sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, chúng ta cần chú trọng nguồn nhân lực chất lượng cao để đi tắt, đón đầu. Đảng ta chỉ ra rằng, ngoài quyết tâm chính trị, thì yếu tố con người, nguồn lực con người có tri thức là yếu tố quyết định. Do đó, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ khoa học công nghệ chính là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, bởi đó là sức mạnh nội lực to lớn của toàn dân tộc. Trên cơ sở phát huy nội lực, kết hợp tốt nội lực với ngoại lực thì chúng ta sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải nhìn nhận và xác định rõ một số thách thức, rào cản cần phải phá bỏ và vượt qua để từ đó đón bắt thêm được nhiều cơ hội mới, trong đó đáng chú ý là tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nếu phá bỏ được những rào cản này, cũng chính là cơ hội để chúng ta tận dụng thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nâng cao sức chiến đấu của Đảng, hiệu quả quản lý của Nhà nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./. [1]Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập I (1911 - 1929), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2007, tr.126, 134; [2]Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008, tr.977; [3] Lịch sử biên niên Đảng Cộng sản Việt Nam - Tập II (1930 - 1945), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 2008, tr.978; [4]Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đảng Toàn tập,Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, Tập 7, tr.424-425; [5] http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/cac-nuoc-vung-lanh-tho/chau-a/viet-nam-vietnam-148 [6] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương, Hà Nội năm 2016, tr.75; [7] Đảng Cộng sản Việt Nam:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương, Hà Nội năm 2016, tr.218-219. Trần Quỳnh
Bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã lật đổ chế độ phong kiến lỗi thời, đập tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay Nhân dân. Cách mạng Tháng Tám thành công đã để lại nhiều bài học quý giá cho sự nghiệp cách mạng trong nước và thế giới, trong nhiều bài học quý giá đó, có bài học về dự báo thời cơ và chớp thời cơ.
Ngày đăng
:
06/08/2021
Xem với cỡ chữ
Sau khi thành lập, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm đề ra đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc một cách đúng đắn, sáng tạo, tạo dựng được cơ sở, nền tảng cách mạng vững chắc để chờ đợi thời cơ thuận lợi phát động khởi nghĩa. Có thể thấy, yếu tố chủ quan cho thắng lợi là sự chuẩn bị chính muồi của lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua các đợt tập duyệt, qua đó đã tạo được một lực lượng vũ trang vững mạnh, sẵn sàng bùng nổ khi có lệnh tổng khởi nghĩa.Tuy nhiên, thắng lợi nhanh chóng, ít tổn thất lực lượng là nhờ yếu tố khách quan là thời cơ ngàn năm có một đã được tận dụng một cách triệt để. Có người đặt câu hỏi: Nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra trước mười ngày hay sau mười ngày so với ngày phát-xít Nhật đầu hàng thì tình hình sẽ thế nào? Không ai có thể trả lời lịch sử bằng chữ “nếu”. Nhưng điều chắc chắn là nếu lệnh Tổng khởi nghĩa phát ra không đúng lúc thì cách mạng chẳng những không thành công suôn sẻ mà có khi còn phải trả giá đắt. Thực dân pháp xâm lược nước ta từ giữa thế kỷ XIX (1858) nhưng khi chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ (1939) Nhật Bản, một đế quốc phát xít ở Châu Á đã dần mở rộng xâm lược khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Năm 1940 khi phát xít Nhật vào nước ta, Pháp và Nhật bắt tay nhau cùng vơ vét, bốc lột. Bằng nhiều chính sách hà khắc của thực dân, phát xít, cuối năm 1944 đầu 1945 Nhân dân ta phải gánh chịu một nạn đói kinh hoàng trong lịch sử khi hơn 2 triệu đồng bào chết đói năm Ất Dậu, hình ảnh được khắc họa trong các vần thơ: Lúa mùa mất sạch mọi nơi / Giặc còn vơ vét hết nồi đến thăng ! / Đói xo khắp xóm khắp làng / Rau dưa chết giá, ngô lang xạc xờ / Buồn trông đồng trắng bãi khô / Lúa chiêm thôi hết ước mơ đầy nồi / Một quan gạo sáu lon thôi / Không tiền mua cám mà nuôi mẹ già / Cháu thơ đói lả ôm bà / Con đeo chân bố khóc la đêm ngày !... (Đói - Tố Hữu, tháng 4-1945). Từ rất sớm, Đảng ta đã đưa ra dự báo thời cơ, bằng việc phân tích chính xác mâu thuẫn giữa các thế lực đế quốc, nhận định phát xít Nhật sẽ đảo chính hất cẳng thực dân Pháp ở Đông Dương và vạch ra kế hoạch hành động khi xuất hiện tình hình mới. Ngày 15-2-1944, trong bài“Bóc trần mưu gian của đế quốc Nhật! Thống nhất hành động đánh đổ thù chung!” đăng trên Báo Cờ Giải phóng, Tổng Bí thư Trường Chinh xác định sớm hay muộn cuộc đấu súng Nhật - Pháp nhất định sẽ xảy ra. Từ đó đến những tháng đầu năm 1945, vấn đề “cuộc đảo chính của phát xít Nhật” luôn luôn được nhắc tới trong những văn kiện, tài liệu tuyên truyền của Đảng, định hướng công tác chuẩn bị của phong trào cách mạng cho thời điểm “đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Vì thế, ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945), Hội nghị Thường vụ mở rộng, dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Trường Chinh, tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh), ra ngay Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” vào ngày 12-3-1945. Sau khi đảo chính, Pháp đầu hàng Nhật và giao Đông Dương cho Nhật; như vậy kẻ thù chính của Nhân dân ta lúc nay là phát xít Nhật nên trong bản Chỉ thị nhận định, cuộc đảo chính của Nhật ở Đông Dương tuy gây ra khủng hoảng chính trị, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực sự chín muồi. Trung ương xác định kẻ thù mới là phát xít Nhật, dự báo hai khả năng làm xuất hiện thời cơ để Nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền trên cả nước. Một là, quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật; hai là, Nhật đầu hàng Đồng minh. Dưới ánh sáng của bản Chỉ thị lịch sử đó, các cấp bộ đảng từ trung ương đến địa phương đã theo dõi sát sao diễn biến mặt trận Thái Bình Dương. Đúng giữa trưa ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Như vậy, thời cơ xuất hiện như khả năng thứ hai mà Đảng ta đã dự báo. Sau khi Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ra Quân lệnh số 1; Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập…giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”. Như cơn sóng trào dâng, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đạp đổ chính quyền phát xít Nhật và tay sai. Ngày 30- 8- 1945, vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị. Ngày 2-9-1945, lãnh tụ Hồ Chi Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội). Ba ngày sau, ngày 5-9-1945, với tư cách là chủ nhà, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đón tiếp quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta. Như vậy, trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng 20 hôm, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 15-8) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pốt-xđam (ngày 5-9). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 15-8 quân Nhật còn mạnh và nếu chờ cho quân Đồng minh vào Đông Dương sau ngày 5-9 trên đất nước có nhiều kẻ thù, cách mạng đều không có khả năng thành công. Đảng và Nhân dân ta đã chớp thời cơ, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó. Thời cơ ở đây là Nhật đầu hàng quân đồng minh, chính quyền tay sai rệu rã, chúng ta cướp chính quyền từ tay Nhật, nhanh chóng tuyên bố độc lập trước khi quân Đồng Minh mà chủ yếu là quân Anh vào với danh nghĩa là giải giáp phát xít Nhật. Nếu chậm trể không giành được chính quyền, khi quân Đồng Minh vào thì khi đó quân Pháp sẽ được quân Anh hậu thuẫn rất khó để chúng ta tuyên bố độc lập. Nhờ chủ động, tích cực chuẩn bị mọi mặt cho phong trào cách mạng, hiểu biết sâu sắc về thời cơ cách mạng; dự báo chính xác, nắm bắt kịp thời và chớp thời cơ mau lẹ, trong vẻn vẹn chưa đầy 20 ngày của Mùa thu lịch sử năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành chính quyền, tuyên bố thành lập nước, thành lập Chính phủ lâm thời, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc cho quốc gia dân tộc. Từ bài học học dự báo và chớp lấy thời cơ trong cách mạng tháng Tám có thể thấy việc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo Nhân dân ta chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ để tiến hành thành công Cách mạng tháng Tám chính là tiếp nối bài học lịch sử truyền thống hào hùng của ông cha về “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, qua đó chung ta càng cảm nhận sâu sắc hơn về hai câu thơ của Bác ở bài thơ “Học đánh cờ” trong tập thơ “Nhật Ký trong tù” “Lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời một tốt cũng thành công” Bài học đó còn tiếp tục được các thế hệ về sau vận dụng thành công. Điển hình là việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng thời cơ; phân tích tình hình, thế trận địch – ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để đưa đến thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954, “vang dội năm châu, chấn động địa cầu” và thắng lợi trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước ngày 30/4/1975. Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, Đảng ta nhiều lần khẳng định đất nước đang đứng trước cả những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen lẫn nhau, đòi hỏi toàn Đảng phải nâng cao quyết tâm chính trị, dự báo chính xác tình hình và có những quyết sách phù hợp. Do đó, bài học về nghệ thuật nắm bắt thời cơ của Hồ Chí Minh trong Cách mạng tháng Tám vẫn mang ý nghĩa thời sự hết sức sâu sắc. Những thời cơ, thuận lợi lớn đã được Đảng và Nhân dân nhận thức đầy đủ, kịp thời. Đó là: hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ yếu của thế giới ngày nay; cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, nền kinh tế tri thức, quá trình toàn cầu hoá đang tạo điều kiện chưa từng có cho các quốc gia xích lại gần nhau, tăng cường hội nhập, phát huy lợi thế; xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội, đời sống quốc tế đang tạo hành lang rộng mở cho các chủ thể, các quốc gia khẳng định vai trò, vị trí của mình. Bên cạnh đó, nhiều khó khăn, thách thức, nguy cơ đang cản trở con đường phát triển của các quốc gia dân tộc: an ninh thế giới bị đe doạ nghiêm trọng bởi các nhân tố truyền thống và phi truyền thống (bạo loạn, xung đột, khủng bố, chiến tranh, tội phạm công nghệ cao, thảm hoạ môi trường…); các thế lực phản động tăng cường chiến lược diễn biến hoà bình chống phá chủ nghĩa xã hội và nhiều chính sách khác cản trở độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các nước trên thế giới… Trên cơ sở nhận thức sâu sắc, đầy đủ về thời cơ và nguy cơ trong thế giới đương đại, Đảng, Nhà nước đã chủ động xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả; đã tranh thủ tốt các thời cơ, thuận lợi và ứng phó phù hợp trước các nguy cơ, thách thức, đẩy lùi nhiều khó khăn. Nhờ vậy, từ năm 1986 đến nay, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: bảo vệ, đổi mới và phát triển chủ nghĩa xã hội trước những thử thách nghiệt ngã của lịch sử; khắc phục khủng hoảng, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển; chính trị xã hội ổn định, đời sống Nhân dân có nhiều bước cải thiện rõ rệt, đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; quốc phòng, an ninh vững chắc, đối ngoại rộng mở, đảm bảo môi trường hoà bình, thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế. Thế và lực của đất nước, sức mạnh tổng hợp quốc gia được nâng cao, như lời Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn mạnh“ chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay”. Có thể khẳng định: Trong từng thành tựu của công cuộc đổi mới và trong mỗi bước phát triển của đất nước hôm nay đều khởi nguồn từ những bài học kinh nghiệm quý báu đúc kết từ các thời kỳ cách mạng trước đây. Trong đó, bài học kinh nghiệm nắm bắt và chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 luôn luôn có giá trị lâu bền và ý nghĩa thời đại. Đăng Khoa (Tổng hợp)
Lần xem:
11456
Nghệ thuật chớp thời cơ - bài học rút ra từ Cách mạng Tháng TámCập nhật lúc: 11:07, 21/08/2020 (GMT+7) (LĐ online) - Cách mạng Tháng Tám thành công là một mốc son chói lọi trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam. Thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám được kết hợp bởi nhiều yếu tố; trong đó, chớp thời cơ là yếu tố quan trọng mang đến sự thắng lợi và ít đổ máu.
Thời cơ là thời gian, điều kiện, hoàn cảnh chủ quan và khách quan thuận lợi để tiến hành thắng lợi một việc gì đó và ai nắm được thời cơ thì chắc chắn sẽ thành công. Thời cơ của Cách mạng Tháng Tám bắt đầu từ khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 đang đi đến những ngày cuối cùng; phát xít Đức và Ý ở Châu Âu đã bị đánh bại, phát xít Nhật ở châu Á chật vật chống chọi với quân Đồng minh. Ngày 13-8-1945, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc với chiến thắng thuộc về quân Đồng minh. Ở trong nước, nhân dân ta đang sục sôi ý chí đấu tranh cách mạng; hàng ngũ chỉ huy của Nhật ở Đông Dương bị chia rẽ cực điểm, quân lính rệu rã, mất hết tinh thần chiến đấu; bọn Việt gian thân Nhật hoang mang, hoảng sợ… Với kinh nghiệm và sự nhạy bén, Đảng ta nhận định “Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi” - “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc này thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Hưởng ứng quyết định Tổng khởi nghĩa của Trung ương Đảng và bức thư kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đã nhất tề vùng lên làm cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25-8-1945, Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ. Có thể nói, thời cơ của Cách mạng Tháng 8, thời cơ để dân tộc ta đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân nằm trong khoảng thời gian từ ngày 13-8 đến ngày 05-9 -1945, vì thời gian này hội tụ được các yếu tố khách quan và chủ quan, đó là: (i) Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, quân Nhật ở Đông Dương rệu rã không còn tinh thần chiến đấu. (ii) Pháp đã đầu hàng Nhật, giành chính quyền từ tay Nhật, lật đổ chính quyền phong kiến Bảo Đại và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 02-9-1945, trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta giải giáp quân Nhật. (iii) Tổng khởi nghĩa diễn ra trong thời điểm này sẽ giành được thắng lợi nhanh chóng và sự tổn thất về người và của ít nhất; đồng thời cũng triệt tiêu một đầu mối quan trọng mà các thế lực đế quốc, phản động muốn duy trì, sử dụng để mưu toan chống phá chính quyền cách mạng, đặt lại ách thống trị trên đất nước ta. Như vậy, cuộc Tổng khởi nghĩa nếu diễn ra sớm hơn hoặc chậm hơn thời gian này, thì cơ hội để giành độc lập, tự do rất khó thành công; bởi trước ngày 13-8 quân Nhật còn mạnh, còn sau ngày 05-9 các thế lực đế quốc, phản động đội lốt danh nghĩa quân Đồng minh vào tiếp quản chính quyền từ tay quân Nhật, thực hiện âm mưu cướp nước ta một lần nữa. Điều này cho thấy, chớp đúng thời cơ là nhân tố có tính quyết định sự thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945; đồng thời chứng minh một cách hùng hồn nghệ thuật thuật tạo thời cơ, chớp thời cơ tài tình của của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta.
Thực ra, để chớp được thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã có sự chuẩn bị suốt 15 năm về chủ trương, lực lượng và tập dượt qua các phong trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939, 1939-1945, cao trào kháng nhật cứu nước, đặc biệt là cao trào cách mạng từ tháng 3 đến tháng 8-1945. Hơn nữa, từ 1941, Bác Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tiến hành thành lập Mặt trận Việt Minh, thành lập Khu giải phóng, triệu tập Quốc dân Đại hội Tân Trào, thành lập Ủy ban giải phóng (tức Chính phủ Lâm thời)… Tháng 5-1941, dựa trên những dự đoán ban đầu của tình hình cách mạng trong nước và thế giới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 đã nhận định: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”.
Việc chớp thời cơ, vận dụng và tận dụng tốt thời cơ để tiến hành thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám và thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có nhiều ý nghĩa và bài học sâu sắc không chỉ cho riêng dân tộc Việt Nam mà còn cho tất cả dân tộc thuộc địa trên thế giới. Trong Cách mạng Tháng Tám, cùng với bài học về nghệ thuật chớp thời cơ, chúng ta còn rút ra được nhiều bài học quý báu về việc biết tận dụng thuận lợi trong và ngoài nước (yếu tố khách quan, chủ quan); tận dụng được mâu thuẫn của kẻ thù; có tầm nhìn xa trông rộng cũng như lường trước trước được kết quả sẽ diễn ra; phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, với nòng cốt là lực lượng công - nông - binh hùng hậu; sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò quyết định… Chính từ những bài học quí báu đó, mà Đảng ta đã vận dụng sáng tạo và thành công trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trong sự nghiệp xây dựng - bảo vệ Tổ quốc, cũng như công cuộc đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức đan xen; đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn, phức tạp. Theo quy luật vận động, phát triển của xã hội, đi liền với những cơ hội, vận hội mới luôn có những khó khăn, thách thức nảy sinh. Vì vậy, nếu biết vận dụng, nắm bắt tốt cơ hội và luôn nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách thì sẽ biến điều bất lợi thành có lợi. Ngược lại thì không những không tận dụng được thuận lợi, cơ hội để phát triển, mà còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại và nguy cơ tụt hậu càng xa hơn. Điều này đòi hỏi chúng ta phải chủ động chuẩn bị về nguồn lực; biết phân tích, dự báo tình hình trong nước và thế giới trên cơ sở khách quan, khoa học; xác định được nhân tố thuận lợi nảy sinh trong khó khăn, thách thức; quyết tâm, đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, thì chắc chắn sẽ tận dụng, tranh thủ được thời cơ, vượt qua mọi thách thức, tiếp tục vững bước tiến lên trên con đường đổi mới và hội nhập quốc tế.
Trước đây, trong Cách mạng Tháng Tám, Ðảng chủ trương xây dựng lực lượng, chủ động đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền; còn ngày nay trong bối cảnh khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão, để đón thời cơ, thì yếu tố con người với quyết tâm chính trị cao, có tri thức và bản lĩnh… sẽ là nhân tố quyết định. Do đó, nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, có đủ đức, tài, có khả năng nắm bắt, đón đầu, làm chủ được khoa học - công nghệ, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu; đó chính là sức mạnh nội lực to lớn của đất nước. Làm tốt điều này, thì cho dù thế giới có nhiều biến động phức tạp, cho dù khó khăn do đại dịch Covid-19, suy giảm kinh tế toàn cầu, đất nước ta vẫn có thể tận dụng được những yếu tố thuận lợi, tranh thủ được những thời cơ nảy sinh từ cuộc khủng hoảng để vượt qua mọi thách thức, tiếp tục ổn định, phát triển nhanh, bền vững; thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám (19/9/1945 - 19/8/2020) trong bối cảnh trong nước và thế giới đã có những thay đổi căn bản; vấn đề hội nhập, toàn cầu hóa nổi lên như một xu thế vận động tất yếu; nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới thuận lợi, đồng thời cũng gặp phải những khó khăn, thách thức lớn; do đó, bài học về nhận định thời cơ và chớp thời cơ trong Cách mạng Tháng Tám 1945 lại càng có giá trị thời sự sâu sắc, nếu biết vận dụng sáng tạo nhất định sẽ thành công.
NGUYỄN VĂN HƯƠNG Nghệ thuật Tạo thời cơ và chớp thời cơ của trong cách mạng tháng Tám năm 1945 của Đảng.DOCBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151 KB, 15 trang ) ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI Cách mạng tháng Tám đã chọn đúng thời cơ, nắm bắt thời cơ và tận dụng những thuận lợi của thời cơ. Chỉ trong vòng 20 ngày (15-8 đến 5-9) cách mạng Việt Nam đã có một bước ngoặt quyết định, cuộc tổng khởi nghĩa diễn ra rất nhanh, rất mạnh và rất gọn. Nếu sớm hơn thời gian đó, khi phát xít Nhật chưa đầu hàng, hoặc muộn hơn thời gian đó. Khi quân Anh, Tưởng đã vào Đông Dương thì tình hìh sẽ diễn biến phức tạp khôn lường. 2 Chọn đúng thời cơ khởi nghĩa là vấn đề vô cùng quan trọng vì khởi nghĩa vũ trang; một hình thức đặc biệt của đấu tranh vũ trang, chí thành công khi trước hết đã có thể “dựa vào một bước ngoặt quyết định trong lịch sử của cuộc cách mạng đang lên. Khi mà tính tích cực của các bộ phận tiên tiến trong nhân dân được biểu lộ cao hơn hết, khi mà những dao động trong hàng ngũ địch và trong hàng vũ những người bạn mềm yếu do dự và không kiên quyết của cách mạng biểu hiện ra mạnh hơn hết” (Lê- nin - Chủ nghĩa Mác và khởi nghĩa vũ trang). Chọn đúng thời cơ khởi nghĩa còn hết sức quan trọng vì thời cơ đó có thể qua đi rất mau. Lênin trong buổi chiều ngày 24-10-1917 đã viết rõ “Rõ ràng hơn ban ngày là hiện nay nếu khởi nghĩa chậm thì thật lá xuống hố… lịch sử sẽ không tha thứ cho các nhà cách mạng, nếu chậm trễ, họ có thể thắng ngày hôm nay (và nhất định sẽ thắng ngày hôm nay) nếu chậm đến ngày mai thì sẽ mất nhiều và có thể mất hết…”. Nắm vững lý luận cuả Chủ nghĩa Mác-Lênin về khởi nghĩa vũ trang và nhận thức được sâu sắc quá trình phát triển của tình thế. Đảng đã sớm vạch được lúc nào xuất hiện thời cơ khởi nghĩa ở Việt Nam và đã biết trước thời cơ đó sẽ đi qua rất mau. Để có thể chọn đúng thời cơ, nắm bắt đúng thời cơ và tận dụng những thời cơ thì trước hết phải tạo được thời cơ, tạo thời cơ đó chính là quá trình xây dựng, chuẩn bị về đường lố, phương pháp và lực lượng cách mạng… Đó là yếu tố vật chất tạo nên thực lực của cách mạng, tạo nên sức mạnh vô địch giành thắng lợi trong giờ phút quyết định, thời cơ tháng Tám không phải là một cơ may. Như chúng ta đã biết 9-1939 chiến tranh thế giới thứ hài bùng nổ ở Đông Dương thực dân Pháp đàn áp rất khốc liệt phong trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, đồng thời ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ để cung cấp cho chiến tranh đế quốc của chúng. Chiến tranh đã đặt đát nước ta trong tình hình mới. Chính sách vơ vét, cướp bóc và chính sách khủng bố phát xít của đế quốc trong chiến tranh sẽ đẩy mau tốc độ cách mạng hoá nhân dân, đẩy mau tình thế tới một thời điểm mà 3 giai cấp thống trị không thể thống trị như cũ, và giai cấp bị trị cũng không thể sống như cũ được nữa. Chiến tranh đã đặt nhiệm vụ đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai thành nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt của cách mạng. Đấu tranh hợp pháp giành chính quyền dân chủ, dân sinh không còn khả năng mà cũng không phải là mục tiêu trực tiếp của cách mạng lúc ấy nữa. Đảng ta đã kịp thời chỉ thị cho các cơ quan và cán bộ hd hợp pháp và nửa hợp pháp phải mau lẹ rút vào bí mật, chuyển trọng tâm công tác về nông thôn để tiến hành công tác phát triển mạnh mẽ lực lượng cách mạng ở cả nông thôn và thành thị. Tháng 6-1940 nước Pháp bị quân phát xít Hít le chiếm đóng phát xít Nhật nhân cơ hội đó đã xâm lược Đông Dương. Thực dân Pháp đã đầu hàng phát xít Nhật, chúng quỳ gối mở cửa đón phát xít Nhật vào cùng bóc lột, thống trị. Do sự xúi giục của Nhật, Thái Lan gây chiến với đế quốc Pháp. Tuy vậy nhân dân Việt Nam bất khuất đã đứng dậy chống cả Nhật lẫn Pháp. Tháng 9-1940 nổ ra cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn. Tháng 11-1940 nổ ra cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, tháng 1-1941 nổ ra cuộc binh biến Đô Lương. Các cuộc khởi nghĩa này báo hiệu một thời kỳ mới của đất nước. Thời kỳ toàn dân nổi dậy cầm vũ khí đánh đổ bọn cướp nước và bán nước giành độc lập, tự do, thời kỳ những cuộc khởi nghĩa từng phần có thể nổ ra để chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa trong cả nước. Mặc dù khách quan có nhiều thuận lợi nhưng tình thế cách mạng lúc đó cũng mới chỉ là tình thế cách mạng nói chung. Điều kiện chủ quan chưa cho phép tiến hành đấu tranh vũ trang ngay để giành lấy thắng lợi toàn bộ cho cách mạng mà còn phải trải qua một thời kỳ tổ chức và chuẩn bị chu đáo hơn. Tháng 11-1940 Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội nghị vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đông Dương bị một cổ hai tròn. Đông Dương bị hai bọn đế quốc phát xít Nhật - Pháp dày xéo, kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương lúc này là đế quốc phát xít Nhật - Pháp. Do đó nhiệm vụ trước mắt của Đảng là lãnh đạo nhân dân Đông Dương chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đánh đổ phát xít Nhật - Pháp giành 4 chính quyền về tay nhân dân. Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đơn vị tập trung đều tiên củ lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng ta lãnh đạo, làm nòng cốt cho việc xây dựng cơ sở chính trị và xây dựng căn cứ địa cách mạng. Tháng 5-1941 Họi nghị Trug ương Đảng họp tại Pắc-Bó do Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì. Khi đó phát xít Đức sắp đánh Liên Xô, hội nghị nhận định nếu Đức đánh Liên Xô thì chúng sẽ bị tiêu diệt, cách mạng nhiều nước sẽ thành công, một loạt nước xã hội chủ nghĩa sẽ ra đời. Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc tình hình trong nước và tình hình trên thế giới, hội nghị xác định cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc, các lực lượng cách mạng của dân tộc cần tập trung mũi nhọn vào bọn phát xít xâm lược Nhật - Pháp bởi vì: “Trong lúc này, nếu không gq được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Hội ngị lập “Việt Nam đọc lập đồng minh” gọi tắt là Việt Minh bao gồm các hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân, áp dụng một sách lược hết sức mềm dẻo để phân hoá cao độ kẻ thù và tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được nhằm cứu nước, giải phóng dân tộc. Hội ngị cũng chỉ rõ chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trug tâm của Đảng và dân ta trong giai đoạn hiện tại. Căn cứ vào khởi nghĩa của Xô viết Nghệ tĩnh và khởi nghĩa của các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Sơn, Nam Kỳ, Hội nghị nhận định khi thời cơ đến “với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương, cũng có thể giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”. Như vậy hội nghị tháng 5-1941 đã nắm vững mục tiêu giải phóng dân tộc là trung tâm, vạch ra những phương hướng, biện pháp tập hợp lực lượng chống đế quố trong một mặt tận dân tộc thống nhất rất thích hợp là 5 Việt Minh, qua con đường khởi nghĩa vũ trang từng phần tiến đến tổng khởi nghĩa. Đây là những sáng kiến lớn của Đảng, Hồ Chí Minh trong cao trào cứu nước những năm 1940 - 1945. Tháng 12-1941 Trung ương ra thông cáo về “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng” vạch rõ khi quân đồng minh kéo vào đất ta tới đâu thì nơi đó nổi cậy lập chính quyền cách mạng lâm thời của địa phương rồi nhân danh chính quyền đó giao tiếp với họ. Từ năm 1944 - 1945 những thắng lợi to lớn của Liên Xô ở mặt tận Stalin grat và các mặt trận tiếp theo đã được cuộc chiến tranh thế giới thứ hai tới bước ngoặt căn bản, số phận của bè lũ phát xít đang tới bước định đoạt. Thời cơ thuận lợi cho các dân tộc bị áp bức vùng dậy đang tới gần. Tháng 8-1945 theo chủ trương của Đảng, tổng bộ Việt minh kêu gọi và phát động phong trào “Sắm vũ khí, đuổi thù chung” phong trào xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang được đẩy mạnh ở vùng rừng núi và trung du song song với phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng ở đồng bằng nông thôn và thành thị. Trên cơ sở phong trào vũ trang và nửa vũ trang cách mạng được xây dựng, một hệ thống căn cứ địa liên hoàn đã được mở ra từ cao Bằng đến Hà Giang, Bắc Kạn và Lạng Sơn. Trên phạm vi cả nước không chỉ cách mạng sục sôi khắp nơi, ở một số địa phương nhất là ở những vùng căn cứ địa quần chúng nôn nóng muốn hành động nhưng Đảng chỉ rõ thời cơ khởi nghĩa cả nước chưa đến. Ngày 22-12-1944 Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập, đã cùng với các đội cứu quốc quân đẩy mạnh đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ tranh, đẩy tới phong trào đánh Pháp đuổi Nhật trên cả nước. Từ cuối 1944 đầu năm 1945 trên chiến trường Châu Âu quân đội Xô Viết đã giành được thắng lợi quyết định bằng hàng loạt đòn phản công chiến lược đưa chiến tranh đến cửa ngõ của sào huyệt phát xít Đức. Giờ tận số của phát xít Đức đã điểm. Số phận của phát xít Nhật ở Đông Dương 6 Nghiên cứu, vận dụng bài học chớp thời cơ trong cách mạng tháng Tám năm 1945 của Đảng Cộng sản Việt NamVũ Hữu Hải 2021-08-24T15:44:46+07:00 2021-08-24T15:44:46+07:00 https://truongchinhtri.edu.vn/home/thong-tin-nghien-cuu-trao-doi/mot-vai-suy-nghi-ve-bai-hoc-chop-thoi-co-trong-cach-mang-thang-tam-nam-1945-cua-dang-cong-san-viet-nam-1314.html https://cdn.giaibainhanh.com/nghe-thuat-tao-thoi-co-va-chop-thoi-co-cua-dang-trong-cach-mang-thang-8-nam-1945--d5ba311a7650dc1be85082d3cf175558.wepbTrường Chính trị tỉnh Bình Phước https://truongchinhtri.edu.vn/home/uploads/logotc108t.png Thứ tư - 18/08/2021 20:33 6.559 0 Thời cơ cách mạng là toàn bộ những sự kiện, biến cố, những tình huống diễn ra có lợi cho cách mạng trong một thời gian và không gian nhất định. Thời cơ đến nhanh, chín muồi nhanh và trôi qua rất nhanh. Đối với cách mạng Việt Nam, khi thời cơ đến, chớp lấy thời cơ để chiến thắng quân xâm lược vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một điển hình về chớp lấy thời cơ giành chính quyền cách mạng về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Sau khi phát xít Nhật đầu hàng quân Đồng minh, đội quân Nhật đang có mặt tại nước ta rệu rã mất hết tinh thần chiến đấu, chống cự cầm chừng đợi quân Tưởng và quân Anh đến giải giáp rồi đầu hàng. Đảng Cộng sản Đông Dương do đã được chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức đã biết nắm bắt thời cơ, nhân cơ hội Nhật đầu hàng quân Đồng minh, tổ chức phát động toàn dân đứng lên tổng khởi nghĩa. Sự chuẩn bị ấy đã được thực hiện ngay từ khi Đảng ra đời năm 1930 và tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng cho đến trước ngày tổng khởi nghĩa năm 1945, đánh dấu sự phát triển của cách mạng Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. [1].Hồ Chí Minh,Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 7, tr.612.Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra dự đoán, các nước phát xít bị quân Đồng minh đánh bại. Quân Đồng minh sẽ kéo vào Đông Dương, giải giáp vũ khí của quân Nhật. Chúng ta phải tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, ra mắt Chính phủ Lâm thời, tuyên bố độc lập, trước khi quân Đồng minh kéo vào nước ta. Vì đây là thời cơ tốt nhất để chúng ta giành lại độc lập, giành lấy chủ quyền quốc gia từ tay giặc Nhật chứ không phải từ tay giặc Pháp. Triều Nguyễn đã ký Hiệp ước Patơnốt từ năm 1884 bán nước ta cho giặc Pháp, Pháp là kẻ thù chủ yếu của dân tộc. Từ tháng 5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám do Hồ Chí Minh chủ trì đã phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai và dự báo: “cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công” [1] . Đảng ta nhận định, những cơ hội tốt đang giúp cho cách mạng nước ta có những điều kiện khởi nghĩa. Nhật đổ, hàng ngũ chỉ huy của chúng ở Đông Dương bị chia rẽ đến cực điểm; quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ, những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Cơ hội tốt cho ta giành chính quyền độc lập đã tới. Những điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như: “quân Tàu đại thắng quân Nhật, Cách mạng Pháp hay Cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp, Nhật sôi nổi và nhất là quân Tàu hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương” [2]. Trong thời điểm chính quyền Pháp bị quân Nhật lật đổ tình hình chính trị khủng hoảng. Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, nếu Đảng ta không chớp thời cơ trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta với danh nghĩa giải giáp quân Nhật thì sẽ không thể tự giành được độc lập, vận mệnh dân tộc vì vậy đến vạn năm cũng không thể đòi lại. Trong lúc quân Pháp đã đầu hàng quân Nhật, quân Nhật rệu rã không còn tinh thần chiến đấu. Đây chính là thời cơ của cách mạng Việt Nam, thời cơ của toàn Đảng và toàn dân ta. Nếu giành được chính quyền trong thời điểm này Việt Nam mới được công nhận là một nước độc lập, không lệ thuộc vào Quân đội Đồng minh. Sự linh hoạt, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta còn thể hiện ở việc phân tích, dự báo mức độ thương vong ít nhất của quân và dân ta lúc này nếu ta tiến hành khởi nghĩa. Qua phân tích cho thấy đây là thời điểm quân ta hoàn toàn có thể lật đổ chính quyền tay sai từ các địa phương đến toàn quốc mà tránh được sự tổn thất đến mức thấp nhất. Chính vì vậy, trong Thư gửi đồng bào toàn quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các Đồng minh sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!” [3]. Hồ Chí Minh khẳng định, đây là lúc thời cơ chín muồi nhất, thời cơ đã đến, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta… Chúng ta không thể chậm trễ, dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám(5/1941) Đảng ta nhận định, lúc này nếu không giải phóng được dân tộc, không đòi được độc lập, tự do cho dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được.Có thể nói Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã sáng suốt linh hoạt chớp thời cơ của cách mạng từ háng 8/1945. Đó là việc tận dụng những cơ hội hiếm có do khách quan và chủ quan mang đến, những điều kiện thuận lợi ở trong nước và trên thế giới để khởi nghĩa giành chính quyền, giành độc lập cho dân tộc, cứu dân, cứu nước mà ít phải hy sinh xương máu. Trên cơ sở phân tích mâu thuẫn giữa các nước, các dân tộc trong chiến tranh thế giới thứ II, phân tích các mâu thuẫn chủ yếu trong nước; lợi dụng được mâu thuẫn của kẻ thù. Đo lường trước những diễn biến và dự báo kết quả thắng lợi sẽ đạt được. Phát huy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, chớp lấy thời cơ của cách mạng để tiến hành tổng khởi nghĩa, lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, đánh Pháp, đuổi Nhật, giành lấy độc lập chủ quyền trước khi quân Đồng minh tiến vào nước ta. Tránh được ý đồ xâm lược của thực dân Anh và quân Tưởng; hạn chế thiệt hại về người và của, hạn chế sự hy sinh không cần thiết. Nghệ thuật chớp thời cơ để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám năm 1945 trở thành bài học quý báu của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, việc kịp thời nhận diện và nắm bắt tốt thời cơ để giành thắng lợi trong mọi nhiệm vụ cách mạng luôn được Đảng ta quan tâm. Hiện nay, thế giới và đất nước đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với nhiều cơ hội và thách thức. Bên cạnh đó, tình hình dịch bệnh Covid-19 kéo dài, ngày càng phức tạp, tác động tiêu cực trên nhiều phương diện gây ra không ít khó khăn cho quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, phát huy những kết quả đạt được trong lãnh đạo thực hiện “mục tiêu kép” trong thời gian qua, khắc phục những khó khăn trước mắt, nhất là nắm lấy những cơ hội từ trong nước và quốc tế để đưa ra những chủ trương đúng đắn, thực hiện mục tiêu “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa” [4] theo tinh thần Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định. Tài liệu tham khảo: [2].Đảng Cộng sản Việt Nam,Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr. 129-130. [3]. Hồ Chí Minh,Toàn tập, Sđd, tập 3, tr. 538. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. CTQG Sự thật, H. 2021. Tác giả bài viết: Vũ Hữu Hải Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc lựa chọn thời cơ trong cách mạng tháng tám năm 194519/08/2021 16:14:41 CH Vào lúc 14 giờ ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, tại vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể Nhân dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, là dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Chớp thời cơ chiến lược “ngàn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất” giành chính quyền trong cả nước. Việc dự báo đúng thời cơ, nhận định đúng thời cơ và nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng là vô cùng quan trọng, góp phần rất lớn, quyết định đến sự thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngược dòng lịch sử, ngay từ khi còn bị giam cầm trong các nhà tù của Quốc dân Đảng, Hồ Chí Minh đã luôn thức được vấn đề thời cơ trong quá trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong tác phẩm Nhật ký trong tù, Người đã viết: “Thác lộ, song xa dã một dụng,/ Phùng thời, nhất tốt khả thành công”; dịch nghĩa: “Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,/ Gặp thời, một tốt cũng thành công”. Tháng 6/1940, được tin Pháp đầu hàng Đức, Nguyễn Ái Quốc lúc này đang ở Côn Minh, Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp Cơ quan ở nước ngoài của Đảng để phân tích tình hình và chuẩn bị kế hoạch hành động. Người đã phân tích và dự báo: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Sau cuộc họp này, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ thị cho Phùng Chí Kiên, Vũ Anh đến Quý Dương để cùng Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đi Quế Lâm, tìm cách về nước. Cuối tháng 6/1940, Nguyễn Ái Quốc đáp máy bay đi Trùng Khánh để gặp Chu Ân Lai trao đổi về thời cuộc. Cuối tháng 9/1940, Người đã đưa ra một nhận định cực kỳ quan trọng: “Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập”. Ngày 28/01/1941, Nguyễn Ái Quốc cùng với các đồng chí Phùng Chí Kiên, Lê Quảng Ba lên đường về nước, đến ngày 8/02/1941, Người đã đặt chân tới cột mốc 108 trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc, trở về nước sau 30 năm bôn ba, hoạt động ở nước ngoài. Từ ngày 10-19/5/1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ Tám để phân tích tình hình thế giới đang bị tác động sâu sắc bởi cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Người dự báo: “Nếu cuộc đế quốc chiến tranh lần trước đã đẻ ra Liên Xô, một nước xã hội chủ nghĩa thì cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. Đối với cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của các mạng Đông Dương, không biết chớp thời cơ thì vạn năm cũng không đòi lại được. “Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được”. Vào dịp tết Nguyên đán Nhậm Ngọ năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đã cho xuất bản tác phẩmLịch sử nước ta. Đây là một bài diễn ca gồm 236 câu lục bát kể lại lịch sử nước ta từ thời vua Hùng dựng nước đến năm 1942, ca ngợi truyền thống yêu nước, bất khuất, đoàn kết của Nhân dân ta. Cuối tác phẩm, Hồ Chí Minh đã đưa ra dự báo thiên tài: Năm 1945 - Việt Nam độc lập”. Đặc biệt, nhằm tập hợp, quy tụ các lực lượng, cá nhân yêu nước trên toàn quốc cùng thực hiện các mục tiêu chung là giành lại độc lập dân tộc, thực hiện tự do, hạnh phúc cho Nhân dân, theo chủ trương của Hồ Chí Minh, ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh ra đời. Chương trình Việt Minh nêu rõ: “Liên hiệp hết thảy các tầng lớp Nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại, chiến đấu đánh đổ chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, giành quyền độc lập cho nước Việt Nam… lập chính phủ Nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, do Quốc dân Đại hội cử lên, lấy cờ đỏ, sao vàng năm cánh làm quốc kỳ…”. Ngày 25/10/1941, Việt Minh ra bản Tuyên ngôn: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc giải phóng và sinh tồn…”. Dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Hồ Chí Minh, công tác xây dựng lực lượng cách mạng, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền đã diễn ra sôi nổi trong toàn quốc. Phong trào xây dựng các đoàn thể cứu quốc, như Hội Nông dân cứu quốc, Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Công nhân cứu quốc… diễn ra sôi nổi từ cuối năm 1941 ở cả nông thôn và thành thị. Song song với việc xây dựng các đoàn thể cứu quốc, tổ chức Mặt trận Việt Minh, việc xây dựng các căn cứ địa cũng được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Người, khu căn cứ địa Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên đã phát triển mạnh mẽ và trở thành khu giải phóng Việt Bắc. Hồ Chí Minh cũng chỉ thị cho đồng chí Võ Nguyên Giáp thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944. Đến giữa năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, lực lượng cách mạng trên toàn quốc đã phát triển vượt bậc, sẵn sàng cho thời cơ đến. 21 giờ 30 phút ngày 9/03/1945, Nhật đồng loạt tấn công Pháp trên toàn Đông Dương, bắt sống Toàn quyền Decoux và các sĩ quan cáo cấp tại Sài Gòn, đến chiều ngày 10/03, quân Pháp đầu hàng Nhật. Ngay trong đêm Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng mở rộng đã họp ở Đình Bảng. Hội nghị đã đưa ra Chỉ thịNhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Bản Chỉ thị nêu rõ: “Ngay bây giờ phát động chiến tranh du kích, chiếm căn cứ, duy trì và mở rộng chiến tranh du kích, phải là phương pháp duy nhất của dân tộc ta để đóng vai trò chủ động trong việc đánh đuổi quân ăn cướp Nhật bản ra khỏi nước, chuẩn bị hưởng ứng quân Đồng minh một cách tích cực”. Tháng 5/1945, sau khi phát xít Italia, phát xít Đức bị đánh bại ở châu Âu, phát xít Nhật hoàn toàn bị cô lập và đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt. Tiếp đến, ngày 9/8/1945, Hồng quân Liên Xô tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong vòng một tuần lễ, Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt đạo quân Quan Đông - đạo quân tinh nhuệ bậc nhất của quân đội Nhật, giải phóng vùng Đông bắc Trung Quốc và Bắc Triều Tiên. Trước đó nhằm gây sức ép với Chính phủ Nhật và phô trương sức mạnh vũ khí hạt nhân, trong hai ngày 6 và 9/8/1945, Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của Nhật là Hirôsima vàNagazaki làm hàng chục vạn người chết và để lại những hậu quả nặng nề kéo dài. 12 giờ ngày 15/8/1945, Đài phát thanh Tôkiô của Nhật Bản phát đi lời tuyên bố của Nhật hoàng “chấp nhận bản Tuyên bố chung của các cường quốc - Tuyên bố Pốtx-đam”. Nước Nhật bị quân Mỹ chiếm đóng. Quân đội Nhật đang đồn trú tại các quốc gia khác ở nguyên vị trí chờ quân Đồng minh đến giải giáp. Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc. Thông tin từ nước Nhật, khiến quân đội Nhật đang đóng ở Việt Nam hoang mang, rệu rã; Chính phủ thân Nhật bị lung lay cực điểm. Ngay từ ngày 12/8, Hồ Chí Minh đã biết được thông tin về khả năng đầu hàng của quân Nhật, đồng thời Người cũng nắm rõ tinh thần cách mạng sôi sục của quần chúng Nhân dân. Ngày 13/8/1945, Kỳ bộ Việt Minh Bắc Kỳ đã ra thông báo khẩn: “Thời kỳ tiền khởi nghĩa đã hết, chúng ta đứng trong tình thế trực tiếp khởi nghĩa”. Hồ Chí Minh nhận rõ thời cơ tổng khởi nghĩa đã chính thức xuất hiện và thời cơ này chỉ tồn tại trong khoảng hai mươi ngày, từ ngày 15-8/1945 (Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng Đồng minh) đến ngày 5-9/1945 (quân đồng minh kéo vào nước ta để giải giáp quân Nhật). Và Người đã khẩn trương chỉ đạo Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) và Đại hội quốc dân (ngày 16 đến 17/8) tại Tân Trào, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam - Chính phủ lâm thời sau khi cách mạng thắng lợi. Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng (ngày 14 đến 15/8) đã khẳng định: “cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, cách mạng Việt Nam lúc này đang trong “tình thế vô cùng khẩn cấp”. Ngày 17/8/1945, trước đình Tân Trào, thay mặt Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban giải phóng dân tộc để lãnh đạo cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo Nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, quyết không lùi bước…”. Ngày 18/8/1945, Hồ Chí Minh viết thư kêu gọi đồng bào cả nước: “Hỡi đồng bào yêu quí! Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến! Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đua nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không thể chậm trể. Tiến lên! Tiến lên! Dười lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên. Đáp lời kêu gọi của Người và Trung ương Đảng, chỉ trong vòng 15 ngày (từ ngày 14 - 28/8/1945), toàn thể Nhân dân Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, từ thành thị đến nông thôn, từ miền núi đến đồng bằng, hải đảo… đều nhất loạt đứng lên tổ chức khởi nghĩa, lập ra chính quyền Nhân dân, làm nên cuộc khởi nghĩa trong toàn quốc thành công rực rỡ. Tại Hà Tĩnh, từ ngày 17/8, Nhân dân các huyện Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Can Lộc, dưới sự lãnh đạo của lực lượng tự vệ đã chiếm huyện lỵ, lập chính quyền Nhân dân. Ngày 18/8, quần chúng Nhân dân và lực lượng vũ trang tiến về thị xã, chiếm các công sở, buộc lính bảo an giao nộp vũ khí, chính quyền cách mạng được thành lập và ra mắt ngay trong cuộc mít tinh của quần chúng. Cùng với Quảng Nam, Mỹ Tho, Bắc Giang và Hải Dương, Hà Tĩnh là một trong năm địa phương giành chính quyền về tay Nhân dân sớm nhất trong cả nước. Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bản tuyên ngôn đã khẳng định: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống lại ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập”. Sau này, khi đánh giá về cuộc cách mạng thánh Tám năm 1945, Tổng bí thư Trường Chinh đã viết: “Cách mạng tháng tám là kết quả của 80 năm đấu tranh không ngừng của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp. Nó cũng là một biến cố lịch sử vĩ đại của nước ta từ khi Quang Trung đuổi quân xâm lược Mãn Thanh (1789) đến nay”. Nhà sử học người Pháp Charees Fourniau cũng cho rằng: “Cách mạng tháng Tám là tiêu điểm của thế kỷ XX”. 76 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng tháng Tám 1945. Nghệ thuật chớp thời cơ của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945vẫn luôn là bài học cực kỳ quý báu cho cả hiện tại và tương lai. Bài học này hiện vẫn đang được Đảng và Nhân dân ta kế thừa, phát huy, góp phần tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng đất nước. Dù trong hoàn cảnh nào, có khó khăn đến đâu nhưng nếu biết đoàn kết, tập hợp sức mạnh của Nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, thì mọi nhiệm vụ cách mạng đều sẽ thành công./. Nguồn bài viết: Tùng Lĩnh
Chưa có ý kiến nào, bạn hãy là người đầu tiên gửi ý kiến cho bài viết này. Gửi ý kiến
|