Quyền tác giả trong thiết kế xây dựng là gì năm 2024

  • 1. GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM THOA QUYÒN T¸C GI¶ §èI VíI T¸C PHÈM KIÕN TRóC THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  • 2. GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN KIM THOA QUYÒN T¸C GI¶ §èI VíI T¸C PHÈM KIÕN TRóC THEO PH¸P LUËT VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ QUẾ ANH HÀ NỘI - 2015
  • 3. xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN Nguyễn Kim Thoa
  • 4. bìa Lời cam đoan Mục lục Bảng chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC ................................................ 8 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ KHOA HỌC ....................... 8 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học ................................................................................................ 8 1.1.2. Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả............................................................................ 14 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC........................................................................... 15 1.2.1. Khái niê ̣m và đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..... 15 1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc............................................................................................... 22 1.3. SƠ LƢỢC SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY................................................................................... 23 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1986................................................ 24 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995 ................................................ 24 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005 ................................................ 26 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay .......................................................... 28
  • 5. QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC........................................................................... 30 1.4.1. Công ƣớc Berne................................................................................... 30 1.4.2. Hiệp định TRIPs.................................................................................. 33 Kết luận chương 1 ......................................................................................... 35 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC ............................ 36 2.1. CHỦ THỂ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC........................................................................................ 36 2.1.1. Tác giả của tác phẩm kiến trúc............................................................ 36 2.1.2. Chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc......................... 38 2.2. NỘI DUNG QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC..... 40 2.2.1. Quyền nhân thân ................................................................................. 41 2.2.2. Quyền tài sản....................................................................................... 45 2.3. ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC .......................................................................... 50 2.3.1. Tính tính sáng tạo của tác phẩm kiến trúc .......................................... 51 2.3.2. Tác phẩm đƣợc định hình dƣới hình thức nhất định........................... 51 2.4. THỜI HẠN BẢO HỘ VÀ GIỚI HẠN BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC ......................................... 52 2.4.1. Thời ha ̣n bảo hộquyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc................. 52 2.4.2. Giới hạn bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ................. 53 2.5. CHUYỂN GIAO QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC........................................................................................ 56 2.5.1. Chuyển nhƣợng quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ................. 56 2.5.2. Chuyển quyền sử dụng quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ........... 59 2.6. BẢO VỆ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC....... 60
  • 6. quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ......................... 60 2.6.2. Các biện pháp bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.............. 64 Kết luận chương 2 ......................................................................................... 67 Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC VÀ KIẾN NGHỊ.................68 3.1. THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC ................. 68 3.1.1. Nhƣ̃ng kết quả đa ̣t đƣợc trong việc thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc........... 68 3.1.2. Nhƣ̃ng ha ̣n chế, bất câ ̣p trong việc thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc.......... 71 3.1.3. Nguyên nhân của nhƣ̃ng ha ̣n chế , bất câ ̣p trong việc thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc......................................................................... 75 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC........................................................................................ 85 3.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ....................................... 85 3.2.2. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành các quy định của pháp luâ ̣t Viê ̣t Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc..... 89 Kết luận chương 3 ......................................................................................... 96 KẾT LUẬN.................................................................................................... 98 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 100
  • 7. TẮT BLDS Bộ luật dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự LSĐBSBLTTDS Luật Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng dân sự LSHTT Luật Sở hữu trí tuệ LSĐBSLSHTT Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ Nghị định số 100/2006/NĐ-CP Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của BLDS và LSHTT về quyền tác giả và quyền và quyền liên quan Nghị định số 85/2011/NĐ-CP Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20 tháng 9 năm 2011 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của BLDS và LSHTT về quyền tác giả và quyền và quyền liên quan
  • 8. cấp thiết của đề tài Nghệ thuật kiến trúc với tƣ cách là một loại hình nghệ thuật tạo dựng không gian, môi trƣờng sống cho con ngƣời, có tầm ảnh hƣởng vô cùng to lớn đến môi trƣờng sống của mỗi con ngƣời và sự phát triểnkinh tế – xã hội. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng luôn đƣợc coi trọng đă ̣c biê ̣t vì đây là động lƣ̣c để thúc đẩy sƣ̣ sáng ta ̣o củacon ngƣời, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Hiện nay pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đã ghi nhận và bảo hộ quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêngtrong nhiều văn bản pháp luật nhƣ Bộ luật dân sự (BLDS), Luật Sở hữu trí tuệ (LSHTT) v.v... Tuy nhiên, qua thực tiễn thực hiện cho thấy việc vi pha ̣m quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc vẫn còn diễn ra phổ biến. Tình trạng nàydiễn ra ngoài nguyên nhân ý thức chấp hành pháp luật của nhiều ngƣời chƣa tốt còn do pháp luâ ̣t sở hƣ̃u trí tuệ Việt Nam còn thiếu các quy định cụthể điều chỉnh quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nhƣđối với tác phẩm kiến trúc thì tỷ lệ chi tiết mới là bao nhiêu phần trăm trong tổng số các chi tiết cấu thành thì đƣợc bảo hộ bản quyền (trong tác phẩm kiến trúc có rất nhiều chi tiết đòi hỏi yếu tố sáng tạo bao gồm cả nội, ngoại thất và các chi tiết kỹ thuật); tác phẩm kiến trúc đƣợchình thành, sắp đă ̣t các chi tiết cấu thành từ các tác phẩm kiến trúckhác nhƣ lan can, cầu thang, chi tiết hoa văn trang trí... thì có đƣợc coi là tác phẩm phái sinh hay không... Do vâ ̣y, viê ̣c hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúclà vô cùng cần thiết nhằm góp phần thúc đẩy quá trìnhsáng tác, bảo đảm quyền lợi về sở hữu trí tuệ cho các tác giả, chủ sở hữu loại hình tác phẩm đặc biệt này. Xuất phát từ những lý do trên , tác giả đã chọn đề tài : “Quyền tác giả đối với tá c phẩm kiến trúc theo pháp luật Việt Nam ” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật học.
  • 9. nghiên cứu đề tài So với các lĩnh vực khác, việc nghiên cứu các vấn đề về quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng ở nƣớc ta có phần chậm đƣợc quan tâm hơn. Tuy vậy, trong thời gian qua cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã đƣợc công bố nghiên cứu về quyền tác giả, trong đó có một số vấn đề liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Trong số các công trình nghiên cứu đó, có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau đây: - Về luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ và đề tài nghiên cứu khoa học có: Hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam hiện nay, luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Hoàng Minh Thái, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2001; Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường kỹ thuật số - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Quản Tuấn An, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009; Quyền tác giả đối với tác phẩm viết trong pháp luật dân sự Việt Nam- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Trần Thị Thanh Bình, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2005; Quyền tác giả đối với tác phẩm sân khấu - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Phạm Thị Thƣơng, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2007; Quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sĩ luật học, tác giả Nguyễn Thị Lệ Thu, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2012; Thực hiện pháp luật về sở hữu trí tuệ đối với tác phẩm văn học nghệ thuật dân gian ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sĩ luật học, tác giả Đoàn Thanh Nô, bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2014; Bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan ở Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng, chủ nhiệm đề tài Vũ Thị Hải Yến, bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2010 v.v...
  • 10. trình, sách chuyên khảo có: Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, do Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2008; Giáo trình Pháp luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Huế, do Nhà xuất bản Đại học Huế xuất bản năm 2011; Giáo trình Pháp luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng, do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2012; Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, do Nhà xuất bản Hồng Đức và Hội Luật gia Việt Nam xuất bản năm 2012; Giáo trình Luật sở hữu trí tuệ của tác giả Lê Đình Nghị và Vũ Thị Hải Yến, do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam xuất bản năm 2012; Sách chuyên khảo Các yếu tố của quyền sở hữu trí tuệ của tác giả Phùng Trung Tập do Nhà xuất bản Tƣ pháp xuất bản năm 2004; Sách chuyên khảo Luật sở hữu trí tuệ - Án lệ, lý thuyết và bài tập vận dụng của Trƣờng Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2014 v.v... - Về các bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật, hội thảo và website điện tử có: Một số quy định về quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả trong Bộ luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ, tác giả Hoàng Minh Thái, đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật, Viện Nhà nƣớc và Pháp luật số 9/2006; Khái quát về quyền tác giả và bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam, tác giả Điêu Ngọc Tuấn, đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân số 5/2004; Bảo hộ quyền tác giả trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, tác giả Bùi Nguyên Hùng, đăng trên Tạp chí Quản lý nhà nƣớc số 10/2013 của Học viện Hành chính Quốc gia; Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm phái sinh, tác giả Trần Văn Hải, đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lý số 4/2012 của Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học dân gian theo pháp luật Việt Nam, tác giả Nguyễn Thi Triển, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 11/2014; Những quy định về bảo hộ quyền tác giả trong Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và thực thi tại Việt
  • 11. Hoàng Minh Thắng, đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 5/2002; Thực trạng giải quyết tranh chấp về quyền tá c giả tại Việt Nam giai đoạn 2006-2012 và một số đề xuất tiếp tục hoàn thiện pháp luật và thực thi về quyền sở hữu trí tuệ, tác giả Nguyễn Hợp Toàn , Nguyễn Thị Thanh Thủy và Trần Văn Nam của Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân, Tham luận tại Hội thảo Quốc tế về Việt Nam học lần thứ IV ngày 26-28/11/2012 tại Hà Nội; Bản quyền tác giả trong lĩnh vực mỹ thuật Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, tác giả Trần Khánh Chƣơng – Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam đăng trên website điện tử của Hội Mỹ thuật Việt Nam v.v... Các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nêu trên bƣớc đầu đã đề cập, làm rõ đƣợc một số vấn đề liên quan đến quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với một số tác phẩm cụ thể, trong đó có một số vấn đề liên quan đến tác phẩm kiến trúc. Do đó, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cƣ́ u một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các vấn đề về quyền tác giả tác phẩm kiến trúc . Tuy vậy, kết quả của các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nêu trên vẫn là những tài liệu quan trọng để Học viên tham khảo hoàn thành việc nghiên cứu đề tài luận văn của mình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, các quy định của pháp luâ ̣t Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và thực tiễn áp dụng các quy định này ở Việt Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng đƣợc tiến hành đối với các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia và pháp luật của một số nƣớc về vấn đề này để so sánh, tham khảo. Đề tài có nội dung nghiên cứu rất rộng. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của đề tài luận văn thạc sĩ việc nghiên cứu đề tài chỉ tập trung vào những vấn đề đã trình bày trong bản luận văn bao gồm: Những vấn lý luận cơ bản về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nhƣ khái niệm quyền tác giả đối với tác
  • 12. nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ; các quy định của pháp luâ ̣t Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và thực tiễn thực hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây. 4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề lý luận quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ; nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và đánh giá đúng thực trạng của chúng; nhận diện đƣợc những hạn chế, bất cập, từ đó đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Để thực hiện đƣợc mục đích nghiên cứu trên, việc nghiên cứu đề tài có các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; trong đó đƣa ra các khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học – khoa học – nghệ thuật, khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trú c, khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Phân tích sơ lƣợc sự phát triển của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Tìm hiểu một số quy định của pháp luật nƣớc ngoài về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc để so sánh, tham khảo; - Khảo sát việc thực hiện các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc để tìm ra những hạn chế , vƣớng mắc trong việc áp dụng các quy định này; - Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và đề xuất một số giải pháp
  • 13. hiệu quả thực thi pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lê- nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật; đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật sở hƣ̃u trí tuê ̣nó i riêng. Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu cũng sƣ̉ dụng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học truyền thống để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu đề tài nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp mô tả, phƣơng pháp so sánh… 6. Những điểm mới và đóng góp của của luận văn Những điểm mới và đóng góp của của luận văn thể hiện ở những điểm sau: - Xây dựng khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học – khoa học – nghệ thuật, khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Nêu đƣợc ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Xác định đƣợc nội dung quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Phân tích đƣợc các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thời hạn bảo hộ, giới hạn bảo hộ tác phẩm kiến trúc, chuyển giao quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Đánh giá đƣợc thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và thực tiễn thực hiện; - Nhận diện đƣợc những hạn chế , bất cập của các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc; - Đề xuất đƣợc một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật Viê ̣t Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và nâng cao
  • 14. chức thi hành pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc trên thực tế. Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu cho việc giảng dạy, học tập ở đại học và sau đại học, cho việc xây dựng và thực thi pháp luật về lĩnh vực quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chƣơng: Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Chương 2. Thƣ̣c tra ̣ng pháp luật Việt Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Chương 3. Thực tiễn áp dụng pháp luật Viê ̣t Nam về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
  • 15. ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM VĂN HỌC, NGHỆ THUẬT VÀ KHOA HỌC 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học Trong pháp luật quốc tế, quyền tác giả đã đƣợc đề cập cách đây hàng trăm năm. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa và điều kiện kinh tế - xã hội mà việc đề cập đến quyền tác giả giữa các nƣớc khác nhau có những khác biệt nhất định. Ở các nƣớc theo truyền thống pháp luật lục địa khi đề cập đến quyền tác giả (tiếng Pháp: droit d’auteur, tiếng Đức: Urheberrecht) thƣờng nhấn mạnh đến khía cạnh nhân thân của quyền tác giả còn ở các nƣớc thuộc hệ thống luật Anh - Mỹ thì lại nhấn mạnh quyền thƣơng mại trong quyền tác giả (bản quyền - copyright). Ở Việt Nam, quyền tác giả cũng đã đƣợc định nghĩa ở nhiều công trình nghiên cứu khoa học pháp lý khác nhau đã đƣợc công bố và cả trong các văn bản pháp luật do Nhà nƣớc ban hành. Về cơ bản, các định nghĩa này đều có sự tƣơng đồng nhƣng cũng có những sự khác biệt nhất định. Theo Giáo trình Pháp luật sở hữu trí tuệ của Đại học Huế, do Nhà xuất bản Đại học Huế xuất bản năm 2011 thì “quyền tá c giả” theo tiếng Anh thực chất là quyền sao chép vì từ “copyright” đƣợc ghép từ “copy” (sao chép) và “right” (quyền); “quyền của tác giả trước hết là quyền tinh thần đối với những tài sản trí tuệ do mình sáng tạo ra, sau đó mới là quyền kinh tế” [40, tr.19]. Ở đây, bƣớc đầu giáo trình đã chỉ ra quyền tác giả bao gồm quyền tinh thần và quyền kinh tế của tác giả đối với tài sản trí tuệ do mình tạo ra; trong đó, quyền
  • 16. cơ bản sau đó với đến quyền về kinh tế. Tuy nhiên, định nghĩa này còn quá giản lƣợc. Theo Tƣ̀ điển Luâ ̣t ho ̣c của Viê ̣n khoa học pháp lý, Bô ̣Tƣ pháp, do Nhà xuất bản Tƣ pháp xuất bản năm 2005 thì quyền tác giả là: 1. Tổng hợp các quy pha ̣m pháp luâ ̣t điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ việc cá nhân sáng tạo ra tác phẩm văn học , nghê ̣ thuâ ̣t, khoa học, kỹ thuật (theo nghĩa khách quan). 2. Quyền của tác giả đã trƣ̣c tiếp sáng ta ̣o ra mô ̣t phần tác phẩm hoă ̣c toàn bô ̣tác phẩm (theo nghĩa chủ quan), bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân thân đó. 3. Quan hê ̣dân sƣ̣ bao gồm chủ thể , khách thể, nô ̣i dung liên quan đến viê ̣c sáng tạo, sƣ̉ dụng tác phẩm [36, tr.655]. Tại đây, Từ điển đã đƣa ra ba cách hiểu về quyền tác giả . Khái niệm quyền tác giả ta ̣i đây đã có sƣ̣ mở rô ̣ng hơn so với khái niê ̣m trên với viê ̣c bổ sung thêm nô ̣i dung quyền tác giả (bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản) và nhìn nhận đƣợc quyền tác giả dƣới góc độ lý luận là một quan hệ dân sự chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự với đầy đủ các cấu thành : chủ thể, khách thể, nội dung liên quan đến viê ̣c sáng ta ̣o, sƣ̉ dụng tác phẩm. Tuy nhiên, khái niệm này cũng chƣa làm rõ đƣợc tác giả có quyền đối với những loại tác phẩm thuộc nhƣ̃ng lĩnh vƣ̣c nào. Bên cạnh đó, giải thích thứ hai của khái niệm “Quyền của tá c giả đã trực tiếp sá ng tạo ra một phần tá c ph ẩm hoặc toàn bộ tác phẩm (theo nghĩa chủ quan), bao gồm quyền nhân thân và quyền tà i sản gắn liền vớ i cá c quyền nhân thân đó ” cũng còn hạn chế đáng kể khi chƣa tính đến các chủ thể khác ngoài tác giả - ngƣời trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm. Theo giáo trình Luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì quyền tác giả hiểu theo cách đơn giản là “quyền cho phép tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả được độc quyền khai thác tác phẩm, chống lại việc sao chép bất hợp pháp” [43, tr.46]. Theo tác giả thì khái niệm
  • 17. đơn giản, vô hình chung đã thu hẹp phạm vi bảo hộ của quyền tác giả khi chỉ nêu đƣợc quyền sao chép là một trong số những quyền mà tác giả, chủ sở hữu tác phẩm đƣợc bảo hộ. Theo Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội do Nhà xuất bản Công an nhân dân xuất bản năm 2008, thì quyền tác giả đƣợc hiểu theo hai phƣơng diện sau đây: Về phƣơng diện khách quan: Quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật về quyền tác giả nhằm xác nhận và bảo vệ quyền của tác giả, của chủ sở hữu quyền tác giả, xác định các nghĩa vụ của các chủ thể trong việc sáng tạo và sử dụng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Quy định trình tự thực hiện và bảo vệ các quyền đó khi có hành vi xâm phạm. Về phƣơng diện chủ quan: Quyền tác giả là quyền dân sự cụ thể (quyền tài sản và quyền nhân thân) của chủ thể với tƣ cách là tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình khoa học và quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm [41, tr.33, 34]. Ngoài ra, theo Giáo trình này thì: Quyền tác giả còn đƣợc hiểu là quan hệ pháp luật dân sự - quan hệ xã hội giữa tác giả, giữa chủ sở hữu quyền tác giả và các chủ thể khác trong xã hội thông qua tác phẩm, dƣới sự tác động của quy phạm pháp luật, quan hệ giữa các tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả với các chủ thể khác đƣợc xác định [41]. Có thể thấy rằng, định nghĩa quyền tác giả của Giáo trình này về cơ bản đã bao quát khá đầy đủ các phƣơng diện của quyền tác giả, làm rõ đƣợc các tiêu chí xác định chủ thể có quyền tác giả cũng nhƣ các nhóm quyền cụ thể mà tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đƣợc bảo hộ. Định nghĩa quyền tác giả
  • 18. đƣa ra đƣợc cái nhìn tổng thể về mối quan hệ giữa các chủ thể có liên quan đến quyền tác giả. Tuy nhiên, việc đƣa ra nhiều định nghĩa về quyền tác giả nhƣ trên là chƣa thực sự rõ ràng và gây khó khăn cho ngƣời đọc trong việc theo dõi các định nghĩa này. Việc bổ sung thêm nội dung “quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm” vào khái niệm quyền tác giả cũng không thực sự cần thiết và chƣa đầy đủ vì: (i) quyền này là một quyền cơ bản đƣợc bảo hộ theo pháp luật về quyền tác giả nên chủ thể của quyền tác giả đƣơng nhiên có quyền này; (ii) khi quyền tác giả bị xâm phạm thì ngoài việc lựa chọn khởi kiện hay không khởi kiện, chủ thể quyền tác giả có thể lựa chọn biện pháp dân sự hoặc biện pháp hành chính để bảo vệ quyền của mình. Tƣơng tự Giáo trình Luật Sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình pháp luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội do Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2012 cũng tiếp cận khái niệm quyền tác giả theo hai nghĩa sau: Thứ nhất, quyền tác giả là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về quyền của ngƣời đã trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học đƣợc hƣởng các quyền nhân thân và các quyền tài sản do có kết quả sáng tạo đó và quyền tự ngăn chặn hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ khi có các hành vi xâm phạm đến quyền tác giả. Thứ hai, quyền tác giả hiểu theo nghĩa chủ quan là quyền dân sự cụ thể của ngƣời với tƣ cách là tác giả của tác phẩm, công trình thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học có quyền chiếm hữu, sử dụng tác phẩm theo ý chí của mình trong phạm vi luật định và quyền khởi kiện dân sự hay không khởi kiện dân sự khi có hành vi xâm phạm quyền tác giả [44, tr.23]. Theo định nghĩa nêu trên thì quyền tác giả mới đƣợc nhìn nhận dƣới
  • 19. tổng hợp các quy phạm pháp luật về quyền của tác giả - ngƣời trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm (theo nghĩa khách quan) và quyền dân sự cụ thể của tác giả (theo nghĩa chủ quan). Trong khi đó, chủ thể của quyền tác giả không chỉ bao gồm tác giả - ngƣời trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm mà còn bao gồm chủ sở hữu quyền tác giả - ngƣời không trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm nhƣng nắm giữ quyền tác giả theo quy định của pháp luật hoặc đƣợc chuyển giao qua hợp đồng chuyển nhƣợng quyền tác giả hoặc do đƣợc thừa kế. Nhƣ vậy, định nghĩa “quyền tác giả” của Giáo trình pháp luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội đã liệt kê thiếu một chủ thể quan trọng của quyền tác giả là chủ sở hữu tác phẩm. Bên cạnh đó, định nghĩa “quyền tác giả” theo nghĩa chủ quan mới chỉ liệt kê các quyền chiếm hữu, sử dụng tác phẩm của tác giả nhƣng đối với quyền chiếm hữu tác phẩm không đƣợc đặt ra đối với các tài sản sở hữu trí tuệ. Mặt khác, định nghĩa này cũng thiếu sót một quyền quan trọng là quyền định đoạt tác phẩm (cụ thể là quyền chuyển nhƣợng tác phẩm cho ngƣời khác, quyền để lại thừa kế tác phẩm). Việc bổ sung thêm nội dung “quyền khởi kiện hay không khởi kiện khi quyền của mình bị xâm phạm” vào khái niệm quyền tác giả (theo nghĩa chủ quan) cũng không thực sự cần thiết và chƣa đầy đủ vì lý do đã phân tích ở trên. Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm quyền tác giả trƣớc đây cũng đã đƣợc ghi nhận tại Điều 2 Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả năm 1994 (PLBHQTG) nhƣ sau: “Quyền tác giả là các quyền về tinh thần và vật chất của tác giả” [48]. Khái niệm này đã có thành công trong việc bao quát đƣợc hai nhóm quyền mà tác giả đƣợc bảo hộ là: (i) các quyền về tinh thần và (ii) các quyền về vật chất. Tuy nhiên, khái niệm này chƣa làm rõ đƣợc chủ thể nào với những tiêu chí, điều kiện nào sẽ đƣợc ghi nhận và bảo hộ với tƣ cách là tác giả của tác phẩm. Quyền tác giả theo quy đi ̣nh ta ̣i khoản 2 Điều 1 Luâ ̣t Sửa đổi, bổ sung
  • 20. của Luật Sở hữu trí tuệ (LSĐBSLSHTT) là “quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu”. Khái niệm này về cơ bản đã thành công trong viê ̣c đƣa ra đƣợc tiêu c hí rõ ràng để xác định chủ thể có quyền tác giả là chủ thể đó (i) phải trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm hoă ̣c (ii) có quyền sở hữu đối với tác phẩm. Tuy nhiên, khái niệm này vẫn còn hạn chế là chƣa làm rõ đƣợc tác giả có những quyền gì đối với tác phẩm. Qua nghiên cứu cho thấy, chủ thể của quyền tác giả là các tổ chức, cá nhân trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, các tổ chức, cá nhân đầu tƣ của cải, vật chất vào quá trình sáng tạo ra tác phẩm hoặc các tổ chức, cá nhân đƣợc chuyển giao quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển giao quyền tác giả hay qua thừa kế; tác phẩm đƣợc bảo hộ không phụ thuộc vào hình thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội dung và giá trị miễn là đáp ứng đƣợc các điều kiện do pháp luật quy định; nội dung của quyền tác giả bao gồm các quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm và các quyền tài sản gắn liền với các quyền nhân thân đó . Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm “quyền tác giả” nhƣ sau: “Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình trực tiếp sáng tạo ra, hoặc đầu tư của cải, vật chất vào quá trình sáng tạo ra tác phẩm hoặc được chuyển giao quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển giao quyền tác giả hay thừa kế, được pháp luật bảo hộ không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội dung và giá trị, bao gồm quyền nhân thân và quyền tà i sản gắn liền vớ i cá c quyền nhân thân đó”. Nhƣ vậy, đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật thì “Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật do mình trực tiếp sáng tạo ra hoặc đầu tư của cải, vật chất vào quá trình sáng tạo ra tác phẩm hoặc được chuyển giao quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển giao
  • 21. hay thừa kế, được pháp luật bảo hộ không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội dung và giá trị, bao gồm quyền nhân thân và quyền tà i sản gắn liền vớ i các quyền nhân thân đó”. 1.1.2. Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật được bảo hộ quyền tác giả Tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật là thành quả lao động sáng tạo của tác giả đƣợc thể hiện dƣới một hình thức nhất định. Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả phải do tác giả trực tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của ngƣời khác. Tác phẩm phái sinh chỉ đƣợc bảo hộ nếu không gây phƣơng hại đến quyền tác giả đối với tác phẩm đƣợc dùng để làm tác phẩm phái sinh. Các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả có nhiều loại, bao gồm: Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác đƣợc thể hiện dƣới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; tác phẩm báo chí; tác phẩm âm nhạc; tác phẩm sân khấu; tác phẩm điện ảnh và tác phẩm đƣợc tạo ra theo phƣơng pháp tƣơng tự; tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng; tác phẩm nhiếp ảnh; tác phẩm kiến trúc; bản họa đồ, sơ đồ, bản đồ, bản vẽ liên quan đến địa hình, kiến trúc, công trình khoa học; tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian; chƣơng trình máy tính,sƣu tập dữ liệu. Việc xác định rõ các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả cũng nhƣ các quyền cụ thể của chủ thể quyền sở hữu là cơ sở để xây dựng pháp luật bảo hộ quyền tác giả ở mỗi quốc gia cũng nhƣ ở phạm vi quốc tế. Ở các quốc gia pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật có sự khác biệt. Tuy nhiên, trong xu hƣớng hội nhập quốc tế ngày càng có nhiều nƣớc tham gia các công ƣớc về quyền tác giả thì sự khác biệt giữa pháp luật bảo hộ
  • 22. của các nƣớc đối với các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật cũng ngày một hạn chế. Ở Việt Nam, kể từ năm 2005 đến nay pháp luật bảo hộ quyền tác giả đối với các loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật ngày càng đƣợc hoàn thiện và phù hợp hơn với pháp luật quốc tế về vấn đề này. 1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC Nhƣ đã nêu trên, tác phẩm kiến trúc là một loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật về quyền tác giả. 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trú c 1.2.1.1. Khái niệm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc "Kiến trúc” theo Từ điển thefreedictionary đƣợc hiểu là (i) nghệ thuật và khoa học về tổ chức sắp xếp không gian tòa nhà và các cấu trúc tƣơng tự; (ii) kiểu dáng tòa nhà hay cấu trúc tƣơng tự [63]. Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản Từ điển bách khoa xuất bản năm 2011 thì “kiến trúc” là (i) nghệ thuật thiết kế, trang trí nhà cửa, (ii) toàn bộ nói chung những quan hệ bên trong giữa các thành phần tạo nên một chỉnh thể [52, tr.678] còn “tác phẩm” đƣợc hiểu là công trình do nhà văn hóa, nghệ thuật hoặc khoa học sáng tạo ra [52, tr.1130]. Theo sách Kiến trúc công trình của Kiến trúc sƣ Nguyễn Tài My (NXB. Xây dựng, 2011) thì “kiến trúc” là: (i) hoạt động sáng tạo chủ yếu, nhằm phục vụ những vấn đề dân sinh tất yếu nhƣ: ăn, ở, làm việc, đi lại; (ii) nghệ thuật xây dựng nhà ở, dinh thự, cung điện, tàu thủy, ô tô, xe lửa, máy bay, trang thiết bị của gia đình, mậu dịch, kỹ nghệ, nghệ thuật ấn loát sách báo, tạp chí; (iii) thế giới vật chất bao quanh con ngƣời, giải quyết những vấn đề toàn cầu và sáng tạo thế giới lý tƣởng cho con ngƣời;
  • 23. thể nghệ thuật, đƣợc hình thành thông qua một trình tự lao động của con ngƣời: quy hoạch, thiết kế, thi công; (v) tên gọi chung của nhà ở, nhà công cộng, nhà công nghiệp [16]. Việc giải thích khái niệm “kiến trúc” nhƣ trên đã cho ngƣời đọc hình dung đƣợc phần nào về kiến trúc, nghệ thuật kiến trúc. Để có bức tranh toàn diện hơn về lĩnh vực còn xa lạ với những ngƣời ngoài ngành kiến trúc, GS.TS.KTS. Nguyễn Đức Thiềm đã cụ thể hóa hơn nữa khái niệm này nhƣ sau: Kiến trúc là khoa học cũng là nghệ thuật xây dựng và trang hoàng nhà cửa công trình, tức tổ chức không gian sống. Kiến trúc đƣợc xem là một lĩnh vực hoạt động sáng tạo chủ yếu của con ngƣời từ khi có xã hội loài ngƣời…, nhằm cải tạo thiên nhiên hoặc kiến tạo đổi mới môi trƣờng sống, phục vụ tốt các quá trình hoạt động của con ngƣời và xã hội. Mục đích của kiến trúc chính là kiến tạo một “thiên nhiên thứ hai” có tổ chức bên cạnh “thiên nhiên thứ nhất” hoang dã và tự nhiên, nhƣng chỉ đƣợc công nhận là kiến trúc các “không gian – hình khối” có tác động của bàn tay con ngƣời, nhằm thỏa mãn các mục đích vừa vật chất vừa tinh thần, nghĩa là phải có mục đích thực dụng, trên nguyên tắc hợp lý khoa học và tinh thần của cái đẹp, phù hợp quy luật sáng tạo thẩm mỹ [31, tr.5]. Theo giáo trình Luật sở hữu trí tuệ của Trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thì “Tác phẩm là một tài sản vô hình” và là “thành quả lao động sáng tạo của tác giả” [43, tr.47]. Khái niệm “Tác phẩm” đƣợc ghi nhận tại khoản 7 Điều 4 LSHTT Việt Nam là “các sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương thức hay hình thức nào” [22]. Tác phẩm kiến trúc là một loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật về quyền tác giả. Thuật
  • 24. kiến trúc” mới chỉ xuất hiện từ khi pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc ra đời. Trong lĩnh vực kiến trúc, có tác giả đƣa ra định nghĩa về “tác phẩm kiến trúc” nhƣ sau: Tác phẩm kiến trúc không chỉ hiểu là một ngôi nhà, một công trình đơn lẻ mà còn có thể là một tập hợp nhiều công trình, một tổng thể, một quần thể gồm có nhiều dạng hình khối và không gian nội, ngoại thất (không gian trong nhà và không gian ngoài nhà), nhƣ kiến trúc một khu phố, một quảng trƣờng, một công viên, một thị trấn hay cả một đô thị [37, tr.5]. Theo quy định tại Điều 102 (a) Luật quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc năm 1990 của Hoa Kỳ, tác phẩm kiến trúc bao gồm “kiểu dáng tòa nhà được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả tòa nhà, bản vẽ kiến trúc hay thiết kế”. Tác phẩm kiến trúc đƣợc bảo hộ theo luật bản quyền Hoa Kỳ bao gồm cả các tòa nhà đã đƣợc xây dựng. Tuy nhiên, không phải mọi chi tiết trong tòa nhà đều đƣợc bảo hộ dƣới dạng quyền tác giả, mà chỉ những chi tiết mang tính nguyên gốc mới đƣợc bảo hộ. Theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành thì “tác phẩm kiến trúc” là các bản vẽ thiết kế dƣới bất kỳ hình thức nào thể hiện ý tƣởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình xây dựng, quy hoạch không gian (quy hoạch xây dựng) đã hoặc chƣa xây dựng. Theo đó, “Tác phẩm kiến trúc” bao gồm: (i) các bản vẽ thiết kế về mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt, phối cảnh, thể hiện ý tƣởng sáng tạo về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cƣ nông thôn; (ii) mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian (Điều 17 Nghị định số 100/2006/NĐ- CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của BLDS, LSHTT về quyền tác giả và quyền liên quan).
  • 25. trúc là một loại hình cụ thể của tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật, vì vậy cũng có những đặc điểm của tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật nhƣ là những sáng tạo, đƣợc thể hiện dƣới hình thức nhất định v.v... Ngoài ra, tác phẩm kiến trúc còn có những đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất, tác phẩm kiến trúc có tính đa dạng. Căn cứ theo chức năng của công trình, tác phẩm kiến trúc có thể thể hiện thiết kế của nhà ở, nhà ăn, nhà ga, khách sạn, trƣờng học, công trình cấp thoát nƣớc đô thị, cầu cống, nhà máy điện, công trình công cộng khác,... Thứ hai, tác phẩm kiến trúc vừa có giá trị vật chất, vừa có giá trị văn hóa, tinh thần. Tác phẩm kiến trúc không chỉ đƣợc dùng để xây dựng nên những công trình phục vụ mục đích ở, sinh hoạt, làm việc của con ngƣời mà còn góp phần mang lại những giá trị tinh thần cho con ngƣời thông qua hình tƣợng nghệ thuật của tác phẩm. Tác phẩm kiến trúc có thể tạo cho con ngƣời cảm giác trang nghiêm, đồ sộ, vĩ đại,... hoặc toát ra tính phóng khoáng, nhẹ nhàng, sinh động, vui tƣơi. Tùy theo điều kiện và tính chất xây dựng, mỗi tác phẩm kiến trúc có thể thông qua hình tƣợng nghệ thuật để cải tạo và nâng cao giá trị sống của con ngƣời, gợi những tình cảm nồng nàn, tạo cảm giác hài hòa với thiên nhiên (đối với các công trình kiến trúc xanh). Thứ ba, tác phẩm kiến trúc có thể thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Tác phẩm kiến trúc có thể thể hiện dƣới các dạng hình thức vật chất khác nhau nhƣ bản vẽ thiết kế cơ sở, bản vẽ thiết kế thi công, bản vẽ thiết kế kỹ thuật, mô hình, sa bàn. Quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Tác phẩm kiến trúc là một loại hình của tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật. Từ đó có thể rút ra kết luận nhƣ sau: “Quyền tác giả đối vớ i tá c phẩm kiến trúc là quyền của tổ chức, cá nhân đối với bản vẽ thiết kế, mô hình, sa
  • 26. nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian do mình trực tiếp sáng tạo ra hoặc đầu tư của cải, vật chất vào quá trình sáng tạo ra hoặc được chuyển giao quyền tác giả thông qua hợp đồng chuyển giao quyền tác giả hay thừa kế, được pháp luật bảo hộ không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội dung và giá trị , bao gồm quyền nhân thân và quyền tà i sản gắn liền vớ i cá c quyền nhân thân đó”. 1.2.1.2. Đặc điểm của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc Quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là một dạng của quyền sở hữu trí tuệ nên chúng cũng có các đặc điểm chung của quyền sở hữu trí tuệ nhƣ tính vô hình của các đối tƣợng bảo hộ, tính giới hạn về thời gian bảo hộ và không gian bảo hộ; v.v… Ngoài ra, tác phẩm kiến trúc còn là một loại hình tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật đƣợc pháp luật bảo hộ nên quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng có các đặc điểm của quyền tác giả, bao gồm: Thứ nhất, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc thực chất là việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm kiến trúc. Những ý tƣởng, cách sắp xếp, trình bày tác phẩm kiến trúc có trong suy nghĩ của tác giả nếu chƣa đƣợc thể hiện ra bên ngoài bằng một hình thức nhất định thì không đƣợc pháp luật công nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền tác giả khi ý tƣởng, cách sắp xếp, trình bày này đã thể hiện ra bên ngoài dƣới một hình thức nhất định nhƣ bản vẽ thiết kế về ngôi nhà, công trình, tổ hợp công trình kiến trúc, tổ chức không gian, kiến trúc cảnh quan của một vùng, một đô thị, hệ thống đô thị, khu chức năng đô thị, khu dân cƣ nông thôn hay mô hình, sa bàn về ngôi nhà, công trình xây dựng hoặc quy hoạch không gian. Thứ hai, đối tượng của quyền tác giả đối vớ i tá c phẩm kiến trúc được bảo hộ không phân biệt nội dung, giá trị. Đối tƣợng của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là các tác phẩm
  • 27. phẩm kiến trúc là thành quả lao động sáng tạo của tác giả đƣợc thể hiện dƣới một hình thức nhất định, không phụ thuộc vào hình thức thể hiện, trình độ sáng tạo, không phân biệt nội dung và giá trị, một tác phẩm đƣợc bảo hộ nếu tác phẩm đó đƣợc thể hiện dƣới dạng vật chất nhất định. Các tác phẩm kiến trúc tuy có cùng nội dung nhƣng có sự sáng tạo trong hình thức thể hiện đều đƣợc hƣởng sự bảo hộ pháp lý. Thứ ba, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động. Giống nhƣ quyền tác giả đối với các loại tác phẩm khác, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc đƣợc phát sinh một cách mặc nhiên và nó đƣợc thiết lập từ thời điểm tác phẩm đó đƣợc thể hiện dƣới một hình thức nhất định không phụ thuộc vào một thể thức, thủ tục đăng ký. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả, mà chỉ có giá trị chứng cứ chứng minh cho quyền lợi của đƣơng sự khi có tranh chấp về quyền tác giả và một bên khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền giải quyết. Thứ tư, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc không được bảo hộ một cách tuyệt đối. Đối với các tác phẩm đã đƣợc công bố, phổ biến và tác phẩm không bị cấm sao chụp thì cá nhân, tổ chức đƣợc phép sử dụng tác phẩm của ngƣời khác nếu việc sử dụng đó không nhằm mục đích kinh doanh, không làm ảnh hƣởng đến việc sử dụng khai thác bình thƣờng của tác phẩm, không xâm hại đến các quyền lợi khác của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Ví dụ: Tổ chức, cá nhân có thể khai thác, sử dụng tác phẩm kiến trúc đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền trong trƣờng hợp chụp ảnh, truyền hình tác phẩm kiến trúc đƣợc trƣng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó. Hành vi này sẽ không bị coi là hành vi xâm phạm quyền của tác giả.
  • 28. nhân thân thuộc quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc không thể chuyển giao cho người khác. Quyền nhân thân thuộc quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng gắn liền với mỗi tác giả nên không thể chuyển giao cho ngƣời khác, trừ quyền công bố tác phẩm. Thứ sáu, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc được bảo hộ theo lãnh thổ Quyền tác giả đƣợc bảo hộ theo pháp luật quốc gia, nơi tác phẩm đƣợc công bố lần đầu tiên hoặc đăng ký bảo hộ. Đối với tác phẩm của công dân Việt Nam đƣợc bảo hộ trên lãnh thổ của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và tại các quốc gia tham gia điều ƣớc quốc tế về bảo hộ quyền tác giả mà Việt Nam là thành viên (ví dụ: Công ƣớc Berne, Hiệp định TRIPs,…). Ngoài những đặc điểm chung của quyền tác giả thì quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc còn có những đặc điểm riêng sau đây: Thứ nhất, so với các loại hình tác phẩm khác thì việc sử dụng tự do, tức việc khai thác, sử dụng tác phẩm kiến trúc đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền trong một số trƣờng hợp bị hạn chế hơn. Cụ thể là, việc sao chép 01 bản tác phẩm kiến trúc nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân, sao chép tác phẩm kiến trúc để lƣu trữ trong thƣ viện với mục đích nghiên cứu không thuộc trƣờng hợp đƣợc sửa dụng mà không phải xin phép, không phải trả tiền. Thứ hai, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc còn có đặc điểm là dễ bị xâm phạm. Tác phẩm kiến trúc không những rất khó sáng tạo ra mà thƣờng đƣợc sử dụng để xây dựng các công trình nên là tài sản rất có giá trị. Trên thị trƣờng thông thƣờng giá trị của mỗi tác phẩm kiến trúc bằng từ 1% đến 2% giá trị của cả công trình xây dựng. Vì vậy, để tiết kiệm chi cho xây dựng xây dựng nhiều ngƣời thƣờng sử dụng, sao chụp để sử dụng các tác phẩm kiến
  • 29. khác. Hơn nữa, trong điều kiện công nghệ ngày nay thì vấn đề sao chụp để khai thác, sử dụng còn qua dễ dàng và tác giả, chủ sở hữu tác phẩm còn rất khó kiểm soát. 1.2.2. Khái niệm và ý nghĩa của bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trú c 1.2.2.1. Khái niệm bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc Bảo hộ đƣợc hiểu theo nghĩa chung là sự che chở. Vì vậy, bảo hộ quyền tác giả chính là sự ”che chở” của Nhà nƣớc đảm bảo cho các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm khỏi sự xâm phạm của ngƣời khác. Để bảo hộ quyền tác giả, Nhà nƣớc phải thông qua các quy định pháp luật để xác định các quyền của các chủ thể đối với tác phẩm, xác định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền tác giả, đồng thời quy định các phƣơng thức bảo vệ quyền tác giả khi có các hành vi xâm phạm đó [47; tr.113]. Nhƣ vậy, có thể thấy rằng, bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là sự quy định của Nhà nƣớc thông qua các văn bản pháp luật để xác định cá nhân, tổ chức là tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, xác định các quyền của các chủ thể đó đối với tác phẩm kiến trúc, xác định các hành vi bị coi là xâm phạm quyền tác giả và quy định các biện pháp đƣợc thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. 1.2.2.2. Ý nghĩa của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc Việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, khoa học và nghệ thuật nói chung và bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cụ thể là: Thứ nhất, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc sẽ góp phần khuyến khích sự sáng tạo của cá nhân trong việc tạo ra thêm nhiều tác phẩm kiến trúc có giá trị. Việc cho phép khai thác quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc dƣới góc độ quyền tài sản sẽ tạo cơ hội cho cá nhân có thu nhập cao từ việc khai
  • 30. kinh tế của quyền tác giả, qua đó, động viên, khuyến khích cá nhân, tổ chức đầu tƣ trí tuệ, vật chất tiếp tục nghiên cứu, tạo ra nhiều tác phẩm có giá trị, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Thứ hai, việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc góp phần góp phần phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của đất nƣớc, nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên thế giới. Trong lĩnh vực quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, các doanh nghiệp Việt Nam không ngừng đầu tƣ công nghệ, vật chất để tạo ra những sản phẩm có giá trị nghệ thuật, giá trị kinh tế, giá trị sử dụng cao, nâng cao uy tín, khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài. Việc làm này cũng góp phần phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của đất nƣớc. Nền khoa học công nghệ của một quốc gia phát triển dựa trên nền tảng nghiên cứu khoa học của các cá nhân là những nhà khoa học uy tín trong nƣớc hoặc trên thế giới. Các thành tựu khoa học của cá nhân, tập thể đƣợc Nhà nƣớc công nhận thể hiện trình độ phát triển khoa học công nghệ của quốc gia trong lĩnh vực khoa học đó. Các công trình khoa học là sản phẩm trí tuệ của cá nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế của đất nƣớc. Khoa học công nghệ phát triển sẽ tạo động lực cho các ngành kinh tế phát triển. Các sản phẩm trí tuệ của các ngành khoa học tự nhiên đƣợc ứng dụng trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lƣợng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế [50, tr.12]. 1.3. SƠ LƢỢC SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC TỪ NĂM 1945 ĐẾN NAY Do hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam có những đặc thù so với các quốc gia khác nhƣ thời gian chiến tranh kéo dài, trình độ khoa học công nghệ của Việt Nam còn hạn chế nên pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam ra đời và phát triển chậm hơn các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Căn cứ
  • 31. bản pháp luật quy định về quyền sở hữu trí tuệ đƣợc ban hành qua các thời kỳ có thể chia quá trình phát triển của phát luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc qua các giai đoạn sau đây: 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1986 Ở giai đoạn này, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ chƣa phát triển, trong đó có các quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Các văn bản pháp luật quy định về quyền sở hữu trí tuệ đƣợc ban hành có hiệu lực cao nhất là Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ nhƣ Nghị quyết 25/CP ngày 24/2/1961 của Hội đồng Chính phủ về chế độ nhuận bút và Nghị quyết 168/CP ngày 7/12/1967 của Hội đồng Chính phủ về việc trả tiền nhuận bút; Nghị quyết 125/CP ngày 25/5/1974 của Hội đồng Chính phủ về chế độ nhuận bút đối với tác phẩm văn học nghệ thuật – khoa học – kỹ thuật. Mặt khác, các văn bản pháp luật quy định về quyền sở hữu trí tuệ đƣợc ban hành trong giai đoạn này mới quy định về quyền nhuận bút nên khi nói đến quyền tác giả ngƣời ta chỉ biết đến nhuận bút. Tác giả không có quyền gì khác đối với tác phẩm ngoài quyền đƣợc hƣởng nhuận bút. 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1995 Đây là giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nƣớc quan tâm đến sự phát triển khoa học, công nghệ, lấy khoa học công nghệ là động lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng. Nhà nƣớc tạo mọi điều kiện về vật chất và tinh thần để cá nhân phát huy tối đa khả năng nghiên cứu khoa học, công nghệ để sáng tạo ra những công trình khoa học có giá trị khoa học và kinh tế cao. Ngày 14/7/1986, với việc ban hành Nghị định 142/CP của Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) quy định về quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật, công trình khoa học kỹ thuật, lần đầu tiên ở Việt Nam một văn bản riêng biệt về quyền tác giả đã đƣợc ban hành với những quy định cơ
  • 32. với sự giúp đỡ của Hãng VAB (Hãng bảo hộ quyền tác giả của Liên Xô cũ). Nghị định 142/HĐBT tuy chỉ gồm 8 Điều nhƣng đã quy định khá đầy đủ về quyền tác giả. Nghị định đã quy định về tác giả, về tác phẩm đƣợc bảo hộ, xác định các quyền và nghĩa vụ của tác giả và ngƣời sử dụng tác phẩm, xác định việc công bố và sử dụng tác phẩm, thời hạn hƣởng quyền tác giả, quản lý Nhà nƣớc về bảo hộ quyền tác giả. Nghị định không quy định trực tiếp về chủ sở hữu tác phẩm, tuy nhiên, qua những quy định về quyền tác giả có quyền hƣởng nhuận bút (khoản 1 Điều 3) do ngƣời sử dụng tác phẩm trả cho thấy chủ sở hữu tác phẩm đã đƣợc quy định một cách gián tiếp. Ngoài ra, Nghị định còn quy định về những trƣờng hợp sử dụng tác phẩm không phải xin phép và không phải trả tiền nhuận bút cho tác giả. Vì vậy, Nghị định 142/CP đƣợc coi là văn bản quan trọng của pháp luật về quyền tác giả ở Việt Nam trong giai đoạn này. Bên cạnh Nghị định 142/CP, Nhà nƣớc còn có các văn bản pháp luật quan trọng sau đây quy định về quyền tác giả nhƣ Nghị định 59/CP ngày 5/5/1989 của Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ) về chế độ nhuận bút đối với tác phẩm chính trị – xã hội, văn hóa – giáo dục, văn học – nghệ thuật, khoa học – kỹ thuật; Thông tƣ 63-VHTT ngày 16/7/1988 của Bộ Văn hóa hƣớng dẫn việc sử dụng và phân phối nhuận bút đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật hết thời hạn hƣởng quyền tác giả; Thông tƣ 326/BTT của Bộ Văn hóa Thông tin hƣớng dẫn thi hành chế độ nhuận bút đối với tác phẩm chính trị – xã hội, văn hóa – giáo dục, văn học – nghệ thuật, khoa học – kỹ thuật; Thông tƣ liên bộ số 28/TT-LB ngày 16/4/1990 của Bộ Văn hóa - Thông tin Thể thao và Du lịch, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thƣơng binh và Xã hội hƣớng dẫn thực hiện chế độ nhuận bút đối với tác phẩm văn học nghệ thuật; Thông tƣ liên bộ số 1314/TT-LB ngày 23/7/1991 của Bộ Văn hóa - Thông tin Thể thao và Du lịch và Bộ Xây dựng quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc v.v... Trong đó, Thông tƣ liên bộ số 1314/TT-LB quy định khá đầy đủ các vấn đề liên quan đến
  • 33. đối với tác phẩm kiến trúc nhƣ tác giả, chủ sở hữu của tác phẩm kiến trúc; đối tƣợng, nội dung của quyền tác giả tác phẩm kiến trúc; thời gian bảo hộ quyền tác giả tác phẩm kiến trúc. Năm 1992, Nhà nƣớc ban hành Hiến pháp mới. Quyền sở hữu trí tuệ đƣợc ghi nhận và bảo hộ ở trong Hiến pháp (Điều 60) - Văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Để thể chế hóa quy định trên của Hiến pháp năm 1992 và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nƣớc, ngày 02 tháng 12 năm 1994 Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả (bao gồm 7 Chƣơng, 47 Điều). Việc ban hành Pháp lệnh này mở ra một giai đoạn mới cho việc xây dựng văn bản pháp luật bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam. Lần đầu tiên, quyền tác giả đƣợc điều chỉnh bởi một văn bản do cơ quan thƣờng trực của cơ quan lập pháp ban hành. Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả đƣợc coi là văn bản quan trọng nhất, quy định đầy đủ, chi tiết nhất về quyền tác giả. Pháp lệnh không có quy định riêng về chủ sở hữu tác phẩm mà chủ sở hữu tác phẩm đƣợc quy định xen kẽ với quyền của tác giả. Việc bảo hộ tác giả đối với tác phẩm kiến trúc cũng đƣợc ghi nhận tại Điều 4 của Pháp lệnh. Ngoài ra, ở giai đoạn này Nhà nƣớc ta còn ban hành một số văn bản pháp luật khác liên quan đến quyền tác giả nhƣ Luật Di sản văn hóa năm 2001, Luật Xuất bản năm 2004 v.v... Nhƣ vậy, ở giai đoạn này các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc đã tƣơng đối đầy đủ hơn giai đoạn trƣớc. Tuy vậy, các quy định vẫn chƣa cụ thể và chƣa tập trung trong một văn bản có hiệu lực pháp luật cao nên việc thực hiện không tránh khỏi hạn chế. 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005 Năm 1995, Bộ luật dân sự đầu tiên của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đƣợc ban hành. Quyền tác giả đƣợc quy định tại Chƣơng I của Phần thứ sáu của Bộ luật này bao gồm 35 Điều (từ Điều 745 đến Điều
  • 34. chia thành 04 mục. Các quy định về quyền tác giả trong BLDS năm 1995 đƣợc kế thừa và phát triển từ các quy định tƣơng ứng của Pháp lệnh Bảo hộ quyền tác giả. Để cụ thể hóa các quy định mang tính nguyên tắc của BLDS năm 1995 về quyền tác giả, Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản hƣớng dẫn thi hành nhƣ Nghị định 76/CP ngày 29/11/1996 của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong BLDS; Nghị định 60/CP ngày 06/6/1997 của Chính phủ hƣớng dẫn thi hành các quy định trong BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài v.v... Tại Điều 4 của Nghị định 76/CP quy định các loại hình tác phẩm đƣợc bảo hộ quy định tại Điều 747 của BLDS bao gồm cả các tác phẩm kiến trúc. Đặc biệt, ngày 24 tháng 1 năm 2003, Bộ Văn - Thông tin và Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tƣ liên tịch số 04/2003/TTLT- BVHTT-BXD hƣớng dẫn về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Đây là văn bản chuyên biệt quy định về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Nội dung của Thông tƣ quy định khá đầy đủ, chi tiết các vấn đề về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nhƣ các tác phẩm kiến trúc đƣợc bảo hộ, tác giả, chủ sở hữu tác phẩm kiến trúc, quyền của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm kiến trúc, đăng ký quyền tác giả, quyền sở hữu tác phẩm kiến trúc v.v... Ở giai đoạn này, ngoài các văn bản pháp luật trong nƣớc, Nhà nƣớc ta đã ký kết các điều ƣớc song phƣơng và đa phƣơng về quyền sở hữu trí tuệ nhƣ Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả ngày 27/6/1997; Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên bang Thụy Sĩ về Bảo hộ Sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực Sở hữu trí tuệ ngày 7 tháng 7 năm 1999; Công ƣớc Berne bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học ngày 26 tháng 10 năm 2004. Các điều ƣớc này đã trở thành một bộ phận của pháp luật quốc gia quy định về quyền tác giả. Đồng thời
  • 35. các điều ƣớc đã ký kết Nhà nƣớc ta cũng đã ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi hành nhƣ Thông tƣ 05/1998/TT-BVHTT ngày 12/9/1998 của Bộ Văn hóa Thông tin và Du lịch hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ quyền tác giả. Như vậy, có thể nói rằng trong giai đoạn này hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bƣớc có sự phát triển nhất định nhằm đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống cũng nhƣ thực tiễn của nền kinh tế đất nƣớc trong thời kỳ này. Nhà nƣớc Việt Nam đã từng bƣớc quan tâm xây dựng hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền tác giả. Điều này đã góp phần hỗ trợ nhất định cho hoạt động sáng tạo nói chung và cho tài sản trí tuệ dần dần đƣợc hình thành và đƣợc bảo vệ. Tuy vậy, pháp luật bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam nói chung và các quy định của pháp luật về quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng trong giai đoạn này cũng còn bộc lộ nhiều bất cập nhƣ BLDS năm 1995 mới chỉ nêu ra những nguyên tắc cơ bản và chủ yếu điều chỉnh các khía cạnh dân sự của quyền sở hữu trí tuệ. Những quy định có tính pháp lý về xác lập quyền sở hữu trí tuệ và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ chƣa đƣợc đề cập một cách rõ ràng. Mặt khác, các quy phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong giai đoạn này vẫn còn chồng chéo và tản mạn. Điều này đã gây khó khăn, phiền hà, lãng phí thời gian, công sức và tiền của không ít của ngƣời dân trong việc tra cứu, tìm hiểu các quy định của pháp luật để thực hiện cho đúng, cho có hiệu quả. 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, ngày 29/11/2005 tại kì họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua BLDS mới và LSHTT. Việc ban hành BLDS năm 2005 và LSHTT về quyền tác giả đánh dấu sự phát triển mới của pháp luật Việt Nam về quyền sở hữu trí tuệ nói
  • 36. tác giả nói riêng. So với BLDS năm 1995, thì BLDS năm 2005 đã cung cấp thêm một phƣơng pháp tiếp cận mới về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đó là phƣơng pháp tiếp cận từ khía cạnh thƣơng mại. Những quy định của BLDS năm 2005 đã đặt nền móng cho việc điều chỉnh các khía cạnh thƣơng mại này của quyền tác giả. Trên cơ sở các quy định mang tính nguyên tắc của BLDS dân sự năm 2005 về bảo hộ quyền tác giả các khía cạnh khác nhau, đặc biệt là khía cạnh thƣơng mại, LSHTT với 222 điều đã tạo ra môi trƣờng pháp lý thuận lợi và phù hợp cho việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong giai đoạn hội nhập quốc tế. Ngày 19/6/2009 tại kì họp thứ 5 Quốc hội khóa XII đã thông qua LSĐBSLSHTT với 33 điều sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục một số hạn chế nhất định của LSHTT. Để thi hành các quy định của BLDS năm 2005 và LSHTT về quyền tác giả và quyền và quyền liên quan, ngày 21 tháng 9 năm 2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 100/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của BLDS và LSHTT về quyền tác giả và quyền và quyền liên quan (Nghị định số 100/2006/NĐ-CP); ngày 20 tháng 9 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2011/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 100/2006/NĐ- CP ngày 21 tháng 9 năm 2006 quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của BLDS và LSHTT về quyền tác giả và quyền và quyền liên quan (Nghị định 85/2011/NĐ-CP); ngày 29 tháng 02 năm 2008, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tƣ pháp đã ra Thông tƣ liên tịch số 01/2008/TTLT-TANDTC-VKNDTC-BCA-BTP hƣớng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Ngoài việc quy định các vấn đề về quyền tác giả nói chung, trong đó có các vấn đề liên quan đến quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc, thì tại Điều 17 Nghị định số 100/2006/NĐ-CP đã đƣa ra quy định về định nghĩa tác phẩm kiến trúc.
  • 37. ban hành BLDS dân sự năm 2005, LSHTT và LSĐBSLSHTT, Nhà nƣớc cũng ban hành Luật Điện ảnh năm 2006, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2009, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hoá năm 2009, Luật Xuất bản năm 2012, Luật Quảng cáo năm 2012, Luật Hải quan năm 2014 v.v... Trong các văn bản pháp luật này cũng có một số điều khoản quy định những vấn đề liên quan đến quyền tác giả nhƣ quy định về mức phạt đối với các hành vi thuộc tội phạm quyền tác giả của Bộ luật Hình sự năm 2009, quy định về các biện pháp bảo hộ tại biên giới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu liên quan đến sở hữu trí tuệ Luật Hải quan năm 2014 v.v... nhằm tăng cƣờng quản lý lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Ngoài ra, để hội nhập quốc tế sâu rộng hơn nhằm phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn này Việt Nam đã tham gia Hiệp định Trips về các khía cạnh thƣơng mại của quyền sở hữu trí tuệ ngày 11 tháng 01 năm 2007. Như vậy, có thể khẳng định rằng hoạt động lập pháp, lập quy về quyền tác giả nói chung, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng ở giai đoạn này đã có bƣớc phát triển vƣợt bậc, tạo lập đƣợc hành lang pháp lí an toàn, khuyến khích các hoạt động sáng tạo phát triển, đồng thời bảo hộ thành quả lao động sáng tạo đã kết tinh trong các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học. Pháp luật về quyền tác giả, quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc dần dần đã đƣợc hoàn thiện hoàn thiện hơn, thống nhất, minh bạch và khả thi hơn, về cơ bản đã phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo cơ sở pháp lí cho các hoạt động bảo hộ tại quốc gia và hội nhập quốc tế, bảo đảm đƣợc hài hòa lợi ích giữa ngƣời sáng tạo, ngƣời sử dụng và công chúng hƣởng thụ; bảo vệ đƣợc lợi ích của quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế. 1.4. PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC 1.4.1. Công ước Berne Công ƣớc Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (1886)
  • 38. lý thực hiện. Công ƣớc Berne dựa trên 03 nguyên tắc chính và gồm hàng loạt các quy định xác định mức độ bảo hộ tối thiểu cũng nhƣ các quy định đặc biệt đối với các nƣớc đang phát triển. Ba nguyên tắc cơ bản của Công ƣớc Berne bao gồm: Thứ nhất, các tác phẩm có xuất xứ từ một nƣớc thành viên phải đƣợc bảo hộ ở mỗi nƣớc thành viên khác giống nhƣ các nƣớc này bảo hộ cho tác phẩm của công dân nƣớc họ. Thứ hai, việc bảo hộ không phụ thuộc vào sự tuân thủ bất kỳ thủ tục nào, tức là, việc bảo hộ đƣợc tiến hành một cách tự động mà không cần thủ tục đăng ký bảo hộ. Thứ ba, việc bảo hộ độc lập với sự bảo hộ ở nƣớc xuất xứ của tác phẩm. Tuy nhiên, nếu một nƣớc thành viên quy định một thời hạn dài hơn mức tối thiểu quy định trong Công ƣớc và tác phẩm ngừng đƣợc bảo hộ ở nƣớc xuất xứ thì việc bảo hộ có thể bị từ chối. Công ƣớc Berne quy định việc bảo hộ phải bao trùm “mọi sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, không phân biệt phương thức và hình thức thể hiện”. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả nói chung (trong đó có quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc) theo Công ƣớc Berne đối với quyền nhân thân là vĩnh viễn và đối với quyền tài sản là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả chết. Theo quy định tại điểm b Điều 4 Công ƣớc Berne thì tác phẩm kiến trúc còn có thể đƣợc bảo hộ quyền tác giả nếu các tác phẩm kiến trúc đƣợc xây dựng trong một nƣớc là thành viên của Công ƣớc. Theo quy định tại Điều 5 Công ƣớc Berne thì đối với những tác phẩm kiến trúc đƣợc Công ƣớc này bảo hộ, các tác giả đƣợc hƣởng quyền tác giả ở các nƣớc thành viên của Công ƣớc ngoại trừ quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc; việc hƣởng và thực hiện các quyền này không lệ thuộc vào một thể thức hay thủ tục nào mà tùy thuộc vào việc tác phẩm có đƣợc bảo hộ hay không ở quốc
  • 39. tác phẩm. Việc xác định quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc đƣợc xác định theo các tiêu chí sau đây: - Quốc gia thành viên Công ƣớc, nơi tác phẩm kiến trúc đƣợc công bố lần đầu tiên. Tuy nhiên, nếu tác phẩm kiến trúc đƣợc công bố đồng thời ở nhiều nƣớc thành viên Công ƣớc không có cùng một thời hạn bảo hộ thì quốc gia gốc của tác phẩm là quốc gia có thời hạn bảo hộ ngắn nhất; - Quốc gia thành viên của Công ƣớc nếu các tác phẩm kiến trúc cùng công bố đồng thời ở một quốc gia là thành viên của Công ƣớc và một quốc gia không là thành viên Công ƣớc; - Quốc gia thành viên Công ƣớc, nơi tác giả là công dân nếu tác phẩm kiến trúc chƣa công bố hay đã công bố lần đầu tiên ở một nƣớc không là thành viên của Công ƣớc mà không đồng thời công bố ở một nƣớc là thành viên của Công ƣớc khác: Nếu là tác phẩm kiến trúc tọa lạc tại một quốc gia là thành viên Công ƣớc thì quốc gia này sẽ là quốc gia gốc của tác phẩm kiến trúc. Tác giả của tác phẩm kiến trúc đƣợc bảo hộ theo Công ƣớc Berne đƣợc hƣởng độc quyền cho phép sao in tác phẩm kiến trúc dƣới bất kỳ phƣơng thức hay hình thức nào (mọi ghi âm hay ghi hình đều đƣợc xem là sao in). Tuy nhiên, Luật pháp quốc gia thành viên Công ƣớc có quyền cho phép sao in những tác phẩm kiến trúc trong một vài trƣờng hợp đặc biệt, miễn là sự sao in đó không phƣơng hại đến việc khai thác bình thƣờng tác phẩm hoặc không gây thiệt thòi bất chính cho những quyền lợi hợp pháp của tác giả. Ví dụ: việc trích dẫn rút ra từ một tác phẩm kiến trúc đã đƣợc phổ cập tới công chúng một các hợp pháp, phù hợp với những thông lệ chính đang và phù hợp với mục đích; khi trích dẫn hay sử dụng tác phẩm kiến trúc đều phải ghi rõ nguồn gốc tác phẩm kiến trúc và tên tác giả nếu nguồn gốc tác phẩm kiến trúc có mang tên tác giả. Công ƣớc Berne mới chỉ quy định các nguyên tắc bảo hộ, thời hạn bảo hộ quyền tác giả, các hành vi xâm phạm quyền tác giả và cơ chế bảo hộ quyền
  • 40. chung mà không có quy định cụ thể, chi tết hơn nhƣ pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, Công ƣớc Berne ở một chừng mực nhất định đã có sự đóng góp đáng kể vào việc đặt nền tảng và phát triển hệ thống bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi toàn cầu. Do đặc thù của các Công ƣớc là tính cƣỡng chế yếu nên trên thực tế Công ƣớc Berne vẫn không thể thực hiện có hiệu quả mục tiêu bảo hộ quyền tác giả nếu các quy định của Công ƣớc Berne không đƣợc thể chế hóa trong pháp luật các quốc gia. 1.4.2. Hiệp định TRIPs Hiệp định TRIPs ra đời trong bối cảnh quyền quyền tác giả (bao gồm quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc) bắt đầu trở thành mối quan tâm thƣờng xuyên và có ảnh hƣởng trực tiếp tới các thể chế thƣơng mại quốc tế, khuynh hƣớng sử dụng trái phép quyền tác giả lại diễn ra ngày càng phổ biến và trầm trọng; nạn hàng nhái, hàng giả đã trở thành một vấn nạn trên toàn cầu. Việc sao chép quyền tác giả để sản xuất và bán các tác phẩm có chứa các thành quả sáng tạo này đã dẫn đến tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, làm những ngƣời đã bỏ công sức đầu tƣ để tạo ra các thành quả này bị thiệt hại nghiêm trọng. Hiệp định TRIPs ra đời nhằm tạo lập một hệ thống bảo hộ quyền tác giả có tính bắt buộc trên toàn cầu, ngăn chặn việc sử dụng trái phép quyền tác giả và khuyến khích thúc đẩy sáng tạo. Các quy định mới về điều chỉnh các vấn đề liên quan đến thƣơng mại của quyền tác giả thông qua Hiệp định TRIPs đã trở thành một phƣơng tiện giúp củng cố trật tự, cũng nhƣ giải quyết tranh chấp một cách có hệ thống trên phạm vi toàn cầu [67]. Hiệp định TRIPs nêu ra các nguyên tắc và ấn định các mức độ bảo hộ tối thiểu mà mỗi quốc gia thành viên phải bảo đảm cho quyền tác giả của các quốc gia thành viên khác. Trên cơ sở đó, Hiệp định tạo ra sự cân bằng giữa lợi ích lâu dài và chi phí ngắn hạn đối với xã hội. Cũng nhƣ trong các hiệp định khác của WTO, Hiệp định TRIPs dựa trên một số nguyên
  • 41. nguyên tắc đối xử quốc gia (Điều 3), nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (Điều 4) và nguyên tắc bảo hộ cân bằng. Hiệp định TRIPs đề cập chi tiết đến cách thức bảo hộ quyền tác giả, xây dựng hệ thống bảo hộ quyền tác giả nhằm đảm bảo đáp ứng các tiêu chuẩn tối thiểu đƣợc nêu trong Hiệp định theo hai chuẩn mực cơ bản về bảo hộ, đó là tính đầy đủ và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật về quyền tác giả hiện hành. Nền tảng về quyền tác giả của Hiệp định là những nghĩa vụ đƣợc nêu trong Công ƣớc Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật. Ngoài việc nêu ra quy định về nội dung quyền tác giả đƣợc bảo hộ, Hiệp định TRIPs đã có các quy định về việc chính phủ các nƣớc làm thế nào để luật pháp quốc gia bảo hộ đƣợc quyền tác giả và các trƣờng hợp vi phạm phải bị trừng trị. Điều 41 Hiệp định TRIPs quy định về những biện pháp chế tài khẩn cấp nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm và những biện pháp chế tài nhằm ngăn chặn không để các hành vi xâm phạm tiếp diễn. Mặt khác, các thủ tục đó phải đƣợc áp dụng theo cách thức tránh tạo ra các hàng rào cản trở hoạt động thƣơng mại hợp pháp. Các thủ tục và các biện pháp chế tài theo quy định của Hiệp định TRIPs gồm 02 nhóm cơ bản: các biện pháp chế tài dân sự, hành chính và hình sự. Quy định quan trọng nhất của Hiệp định TRIPs là tranh chấp phát sinh liên quan đến Hiệp định TRIPs sẽ đƣợc giải quyết theo quy định của Cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO (DSB). Điều 63 Hiệp định TRIPs yêu cầu các thành viên phải công bố, hoặc ít nhất cho công chúng tiếp cận bằng ngôn ngữ quốc gia, tất cả các luật, quy định, quyết định xét xử cuối cùng và quyết định hành chính giải quyết vụ việc liên quan đến đăng ký, bảo hộ, thực thi, ngăn chặn lạm dụng quyền tác giả. Ngoài ra, các thành viên phải công bố mọi thỏa thuận đã ký với các thành viên WTO khác trong lĩnh vực quyền tác giả.
  • 42. 1 Trong xã hội, những sản phẩm do trí tuệ của con ngƣời tạo nên có ý nghĩa vô cùng to lớn. Trong bối cảnh ngày nay khi các tài nguyên thiên nhiên ngày một ít đi, dân số thế giới ngày một tăng lên, con ngƣời càng phải thúc đẩy tƣ duy sáng tạo để tạo ra của cải vật chất mới đảm bảo tiêu chí tiết kiệm thời gian, công sức lao động và nguyên liệu tạo ra sản phẩm. Việc bảo hộ quyền của tác giả, của chủ sở hữu đối với những tài sản do lao động trí tuệ tạo ra luôn đƣợc coi trọng và đƣợc xem là chuẩn mực đánh giá sự tiến bộ của văn minh nhân loại. Tác phẩm kiến trúc là một loại hình của tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học do lao động trí tuệ sáng tạo ra nên rất có giá trị về vật chất và tinh thần và tinh thần đối với đời sống của con ngƣời. Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của việc bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, trong đó có tác phẩm kiến trúc, Việt Nam đã gia nhập các Công ƣớc quốc tế về quyền tác giả nhƣ Công ƣớc Berne, Hiệp định TRIPS, ký kết các Hiệp định song phƣơng đồng thời cũng ban hành BLDS, LSHTT và các văn bản hƣớng dẫn thi hành các luật này với những quy định cụ thể các vấn đề về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm nói chung và tác phẩm kiến trúc nói riêng… Việc pháp luật ghi nhận bảo hộ quyền tác giả đối với loại hình tác phẩm này có ý nghĩa to lớn trong việc khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động sáng tạo tác phẩm kiến trúc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao điều kiện sống cho ngƣời dân.
  • 43. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC 2.1. CHỦ THỂ CỦA QUYỀN TÁC GIẢ ĐỐI VỚI TÁC PHẨM KIẾN TRÚC Từ khi LSHTT đƣợc ban hành, đặc biệt là từ khi LSĐBSLSHTT đƣợc ban hành thì pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam đã có những quy định cụ thể về các chủ thể của quyền tác giả nói chung và chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc nói riêng. Nhƣ vậy, theo các quy định tại các Điều 736, 740 của BLDS năm 2005 và các quy định từ Điều 36 đến Điều 42 LSHTT thì chủ thể của quyền tác giả nói chung và quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc là tổ chức, cá nhân có tác phẩm kiến trúc đƣợc bảo hộ quyền tác giả gồm: (i) tác giả và (ii) chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Xác định chính xác tƣ cách chủ thể của quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc giúp xác định chính xác quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định hoặc/và giúp xác định chính xác quyền và nghĩa vụ theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng chuyển giao quyền tác giả quyền tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Việc làm này là quan trọng và cần thiết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của những chủ thể này. Tuy nhiên, tại khoản 6 Điều 4 LSĐBSLSHTT về giải thích từ ngữ lại quy định: “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.”. Quy định về giải thích từ ngữ này của LSĐBSLSHTT đã bộc lộ hạn chế là liệt kê thiếu một chủ thể quan trọng của quyền sở hữu trí tuệ là tác giả. 2.1.1. Tác giả của tác phẩm kiến trúc Tác giả của tác phẩm kiến trúc là ngƣời trực tiếp sáng tạo ra toàn bộ hoặc một phần tác phẩm kiến trúc.
  • 44. ra các tác phẩm kiến trúc là quá trình hoạt động sáng tạo. Bởi vậy, một cá nhân chỉ đƣợc thừa nhận là tác giả khi họ đã bằng lao động sáng tạo của mình để trực tiếp tạo ra tác phẩm kiến trúc. Ngƣời đề xuất ý kiến, làm công việc hỗ trợ, đóng góp ý kiến hoặc cung cấp tƣ liệu, cung cấp tài chính cho ngƣời khác sáng tạo ra tác phẩm kiến trúc không đƣợc công nhận là tác giả. Tuy nhiên, một tác phẩm kiến trúc không chỉ đƣợc tạo ra từ lao động sáng tạo của một cá nhân mà có thể còn đƣợc tạo ra từ lao động sáng tạo của nhiều cá nhân. Nếu căn cứ vào số lƣợng ngƣời lao động sáng tạo để tạo ra tác phẩm kiến trúc thì tác giả đƣợc phân thành 02 loại: Thứ nhất, tác giả đơn nhất: Là cá nhân bằng lao động sáng tạo của một mình họ để trực tiếp tạo ra toàn bộ tác phẩm kiến trúc. Ví dụ: đối với các công trình kiến trúc quy mô nhỏ nhƣ nhà ở riêng lẻ thì thƣờng chỉ có 01 kiến trúc sƣ thực hiện việc thiết kế nhà ở. Trong trƣờng hợp này, ngƣời đó có thể đƣợc hƣởng toàn bộ các quyền nhân thân, quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Thứ hai, đồng tác giả: Là nhiều cá nhân hợp tác để cùng nhau bằng lao động sáng tạo tạo ra tác phẩm kiến trúc. Ví dụ: trong các dự án xây dựng các công trình kiến trúc quy mô lớn nhƣ bệnh viện, trƣờng học thì bản vẽ thiết kế thƣờng do nhiều kiến trúc sƣ thực hiện. Trong trƣờng hợp này những ngƣời đó cùng nhau hƣởng quyền nhân thân cũng nhƣ quyền tài sản của tác giả đối với tác phẩm kiến trúc. Tuy pháp luật không quy định nhƣng trong thực tế, khi xác định phần quyền mà mỗi đồng tác giả đƣợc hƣởng, ngƣời ta thƣờng dựa vào thỏa thuận giữa các bên hoặc tính chất, kết cấu của tác phẩm để xác định những ngƣời đó là đồng tác giả định phần hay không định phần.

Ví dụ quyền tác giả là gì?

Quyền tác giả được dùng để bảo vệ các sáng tạo tinh thần có tính chất văn hóa (cũng còn được gọi là tác phẩm) không bị vi phạm bản quyền, ví dụ như cá bài viết về khoa học văn học, sáng tác nhạc, ghi âm, tranh vẽ, hình ảnh, phim và các chương trình truyền thanh.

Bản quyền và quyền tác giả khác nhau như thế nào?

Trong khi quyền tác giả coi người sáng tạo ra tác phẩm-tác giả là trung tâm và bảo hộ tất cả các quyền về cả quyền nhân thân và quyền tài sản thì Bản quyền lại chỉ bảo vệ quyền lợi kinh tế của người sở hữu quyền tác giả hơn là chính tác giả.

Đặc điểm quyền tác giả là gì?

Đặc điểm của quyền tác giả Thứ nhất, đối tượng của quyền tác giả luôn mang tính sáng tạo, được bảo hộ không phụ thuộc vào giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật. Thứ hai, quyền tác giả thiên về việc bảo hộ hình thức hể hiện tác phẩm. Thứ ba, hình thức xác lập quyền theo cơ chế bảo hộ tự động.

Quyền tác giả bao gồm những quyền gì?

Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản - Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; - Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.