Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (714.08 KB, 27 trang )
PHẦN 1. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài : Trong xu thế hội nhập, Tiếng Anh đã trở thành ngôn ngữ chung của toàn cầu để tất cả mọi người trên thế giới có thể thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Hiện thế giới có trên 50 quốc gia sử dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ chính, gần 80 quốc gia sử dụng Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai. Trong tất cả các lĩnh vực từ kinh doanh, thương mại, truyền thông cho đến du lịch, ngoại giao,...Tiếng Anh đều đóng vai trò là ngôn ngữ số một. Đối với Việt Nam trong việc hội nhập kinh tế thế giới, nhất là khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh thì biết Tiếng Anh, giỏi Tiếng Anh sẽ giúp chúng ta có một ưu thế vượt trội hơn những nước khác trong khu vực như Lào, Campuchia, và đặc biệt là Trung Quốc. Cùng với sự phát triển của công nghệ, y học, kỹ thuật và giáo dục… đó là những nơi mà Tiếng Anh đóng vai trò quan trọng nhất. Đặc biệt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, Tiếng Anh đã được giảng dạy từ rất sớm. Dạy Tiếng Anh cho trẻ em hiện nay đang nhận được sự nhiều sự quan tâm của giáo viên dạy Tiếng Anh và các bậc phụ huynh. Cùng với sự hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế, nhu cầu học Tiếng Anh không còn là một sở thích của một số người có năng khiếu nữa. Việc học và thông thạo Tiếng Anh như một ngôn ngữ giao tiếp quốc tế thông dụng đã được xác định là thiết yếu cho mọi lứa tuổi. Vì lẽ đó, Tiếng Anh đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định đưa vào chương trình học chính khóa từ lớp 3. Quyết định này đã thể hiện rõ chiến lược trong giáo dục Việt Nam khi chọn Tiếng Anh là trọng tâm hàng đầu để tiến vào tương lai. Việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính chủ động, sáng tạo của học sinh cũng đã được đưa vào áp dụng trong các nhà trường. Người học đóng vai trò trung tâm còn giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn và là người giúp đỡ các em lĩnh hội kiến thức một cách hiệu quả hơn. Song song với đó, Bộ Giáo Dục cũng đang tập trung đổi mới chương trình môn Tiếng Anh ngay từ cấp Tiểu học. Ngày 30/9/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1
1400/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân” (gọi tắt là đề án ngoại ngữ 2020). Mục tiêu chung của đề án là “Thực hiện đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục, trong đó có giáo dục đại học, nhằm đảm bảo đến năm 2015 đạt được bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên…..”. Thể hiện quyết tâm thực thi Đề án Ngoại ngữ 2020, ngày 8/4/2011 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký Quyết định số 1400/QĐ-BGDĐT thành lập Ban Quản lý Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”. Qua đó ta thấy rằng Nhà Nước đã có mối quan tâm đáng kể đến chiến lược đào tạo ngoại ngữ cho thế hệ tương lai của quốc gia. Dạy học là một công việc có rất nhiều thử thách, cứ mỗi năm trôi qua lại xuất hiện những thay đổi mới vì thế giới luôn thay đổi từng ngày và giáo viên phải luôn sẵn sàng tiếp nhận và truyền lại những kiến thức mới cho học sinh của mình. Làm thế nào để giúp học sinh học tốt môn Tiếng Anh, biết vận dụng và nâng cao khả năng giao tiếp vẫn còn rất nhiều khó khăn. Để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Ở bậc Tiểu học, lượng kiến thức Tiếng Anh của các em chủ yếu xoay quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm gia đình và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Thông qua những chủ điểm này, các em sẽ tích cóp được một lượng từ vựng và mẫu câu cơ bản tạo tiền đề cho các cấp học sau. Tuy nhiên Tiếng Anh là một môn học mới ở cấp Tiểu học nên phần lớn các em học sinh chưa chú tâm vào việc đầu tư cho môn học này, chuẩn bị bài ở nhà còn rất sơ sài. Đồng thời vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt Tiếng Việt vì vậy việc ghi nhớ từ
2
vựng, vận dụng các mẫu câu Tiếng Anh được cung cấp ở trường vào việc giao tiếp còn rất nhiều hạn chế và khó khăn. Từ đó, một số em có tâm lý chán học bộ môn Tiếng Anh. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói Tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học. Theo kinh nghiệm bản thân, tôi thấy một thực trạng là đa số học sinh còn yếu về phương pháp học môn Tiếng Anh như: - Không nắm được số lượng từ vựng nhất định được đề cập trong sách giáo khoa vì vậy dẫn đến không có đủ lượng từ để giao tiếp. - Không nắm được từ vựng nên không hiểu được nội dung bài khóa dẫn đến không thể làm được bài tập đọc hiểu. - Không nắm được từ vựng nên ngại nói bằng Tiếng Anh trong các giờ học Tiếng Anh… Để khắc phục những tình trạng bất cập trên của học sinh, tôi xin nêu ra một vài phương pháp mà bản thân tôi đã sử dụng trong quá trình giảng dạy, giúp học sinh đạt kết quả tiến bộ hơn trong học tập. Chính điều này đã thúc đẩy tôi chọn đề tài “Dạy từ vựng Tiếng Anh tiểu học” với mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Các loại từ vựng trong sách giáo khoa Tiếng Anh 3 và Tiếng Anh 4. - Phạm vi nghiên cứu: + Học sinh khối 3 – 4 – 5 Trường TH và THCS Mò Ó. + Thời gian: bắt đầu nghiên cứu từ 10/10/2015 và kết thúc vào ngày 25/03/2016. 2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu: a. Mục đích nghiên cứu:
Trong dạy Tiếng Anh, việc giúp học sinh ghi nhớ từ vựng là một hoạt động không thể thiếu. Việc ghi nhớ từ vựng không chỉ đơn thuần là nhớ nghĩa 3
Tiếng Việt của từ mà còn là việc giúp các em nghe, phát âm và giao tiếp một cách tự nhiên, chính xác. Việc tìm ra những cách thức giúp các em học từ vựng, hiểu từ vựng và nhớ kỹ là nhiệm vụ của mỗi giáo viên. Vì vậy mục đích của nghiên cứu này chính là đưa ra các phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một cách dài lâu và hiệu quả. b. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài sáng kiến kinh nghiệm của tôi hướng đến các phương pháp giới thiệu và dạy về từ vựng với những nội dung cơ bản sau đây: -Tìm hiểu thực trạng việc học từ vựng Tiếng Anh trước khi thực hiện đề tài. -Công tác chuẩn bị trước khi dạy từ vựng -Thủ thuật vận dụng các phương pháp dạy từ vựng giúp các em ghi nhớ một các tự nhiên và lâu dài. -Thủ thuật giúp học sinh ôn tập, kiểm tra từ vựng. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: -Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tôi đã nghiên cứu nhiều tài liệu liên quan đến việc dạy từ vựng Tiếng Anh ở cấp Tiểu học để hiểu hơn về tâm lý, nhu cầu học cũng như các kỹ năng giảng dạy từ vựng Tiếng Anh cho các em. Thông qua phương pháp này tôi đã thu thập được khá nhiều kiến thức bổ ích cho bài nghiên cứu của mình. -Phương pháp quan sát: đối tượng mà tôi quan sát là các học sinh khối 3-4-5. Phương pháp này giúp tôi phát hiện ra sự thay đổi từng ngày của các em khi học môn Tiếng Anh. Ví dụ: Ở lớp 4A, Hắc là một em học sinh khá là nhút nhát trong mọi hoạt động. Mặc dù được xếp ngồi ở bàn đầu nhưng em
luôn lơ đãng không chú ý trong giờ học. Khi tôi dạy từ vựng sử dụng dụng cụ trực quan, phương pháp này giúp em chú ý hơn một chút. Tôi thay đổi phương pháp dạy từ vựng bằng sử dụng vật thật hay là lồng ghép dạy từ vựng 4
vào các trò chơi thì em Hắc chú ý hơn hẳn. Em tham gia sôi nổi, phát biểu nhiều hơn và theo một cách tự nhiên em tự ghi nhớ được một số lượng từ vựng nhanh và nhớ lâu hơn. -Phương pháp phỏng vấn: nhờ vào phương pháp này mà tôi đã hiểu rõ được các em thích hay không thích những hoạt động gì khi học từ vựng Tiếng Anh, từ đó có kế hoạch thay đổi phương pháp dạy sao cho phù hợp với các em. -Phương pháp thống kê toán học: sau 5 tuần vào năm học, tôi đã làm một phiếu thống kê về việc “Học từ vựng thông qua các phương pháp” nhằm hiểu rõ xem các phương pháp dạy từ vựng mà tôi đã sử dụng thì học sinh của mình cảm thấy thích được dạy từ vựng thông qua phương pháp nào. Từ kết quả mà phiếu thống kê mang lại tôi có thể hiểu rõ hơn các phương pháp mà mình đã sử dụng ảnh hưởng như thế nào đến việc học từ vựng của các em. Từ đó tôi có thể thay đổi cách vận dụng phương pháp giảng dạy của mình sao cho tiết học càng thêm sinh động và thu hút được nhiều học sinh hơn - Phương pháp trưng cầu ý kiến: Tôi thường cho học sinh tự đưa ra những ý kiến cá nhân của các em nhằm xem các em có nhu cầu và nguyện vọng gì trong việc học từ vựng nhằm phát huy tính tích cực của các em. - Phương pháp đàm thoại: tôi thường xuyên sử dụng phương pháp này khi học sinh của mình gặp khó khăn trong việc phát âm hay không hiểu về một vấn đề gì đó, phương pháp này giúp nắm bắt tình hình học sinh để kịp thời sửa sai hoặc uốn nắn cho các em. -Phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả của học sinh: phương pháp này giúp tôi có thể đối chiếu và so sánh chất lượng học tập của học sinh ở các lớp khác
nhau từ đó tôi có thể nhận ra tính hiệu quả của các phương pháp mà tôi đã vận dụng cụ thể ở từng lớp. Mỗi phương pháp trên đều mang lại các thông tin hữu ích cho đề tài của tôi. Trong đó phương pháp chủ đạo là phương pháp quan sát, phương 5
pháp phỏng vấn, phương pháp thống kê toán học và phương pháp đối chiếu, so sánh kết quả. Còn những phương pháp khác được dùng như phương pháp bổ trợ. 5. Đóng góp của SKKN: Tôi viết sáng kiến kinh nghiệm này với mong muốn : - Ghi lại những phương pháp mình đã làm để suy ngẫm, để chọn lọc và đúc kết thành kinh nghiệm giảng dạy của bản thân. - Được chia sẻ với đồng nghiệp những việc đã làm và đã thành công trong quá trình giảng dạy từ vựng của mình - Nhận được những lời góp ý, nhận xét từ cán bộ quản lí nhà trường, từ ban Giám khảo của Phòng Giáo dục và từ các bạn đồng nghiệp, để tôi phát huy những mặt mạnh, điều chỉnh, khắc phục những thiếu sót cho nhằm hoàn thiện hơn. - Rèn luyện tinh thần năng động, giữ lửa lòng say mê, sáng tạo, cố gắng học tập, tự cải tạo mình để theo kịp sự tiến bộ của thời đại. PHẦN 2. NỘI DUNG CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở lí luận Tiếng Anh là một ngôn ngữ thông dụng trên quốc tế và nó đã được đưa vào chương trình giảng dạy, trở thành một trong những bộ môn chính khoá ở các bậc học phổ thông. Để dạy tốt môn Tiếng Anh, mỗi một giáo viên đứng lớp luôn phải thực hiện tốt công tác bồi dưỡng và tự bồi
dưỡng thường xuyên, nghiên cứu, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực, khoa học và phù hợp với từng đối tượng học sinh. Xuất phát từ mục tiêu của giáo dục hiện nay đang tập trung hướng vào việc phát triển tính năng động, sáng tạo, tích cực của học sinh trong 6
hoạt động học tập nhằm tạo khả năng nhận biết và giải quyết vấn đề cho học sinh. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học(PPDH) là giúp học sinh hướng tới việc học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Chương trình giáo dục phổ thông đã ban hành kèm theo quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã nêu: “ Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh , phù hợp với đặc trưng môn học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện từng lớp học, bồi dưỡng cho học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tế, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và trách nhiệm học tập cho học sinh.” Dạy học ngoại ngữ thực chất là hoạt động rèn luyện năng lực giao tiếp dưới các dạng nghe, nói, đọc, viết. Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cần có môi trường với những tình huống đa dạng của cuộc sống. Môi trường này chủ yếu do giáo viên tạo ra dưới dạng những tình huống giao tiếp và học sinh phải tìm cách ứng xử bằng ngoại ngữ cho phù hợp với tình huống giao tiếp cụ thể. Mục đích cuối cùng của việc học ngoại ngữ là giao tiếp. Để giao tiếp tốt trước hết đòi hỏi ở học sinh có vốn từ vựng nhất định, vốn từ vựng càng nhiều giúp học sinh càng hiểu ngôn ngữ giao tiếp nhanh chóng và có hiệu quả. Từ vựng Tiếng Anh là một công cụ, phương tiện quan trọng nhất trong việc dùng và học Tiếng Anh . Ở bất kỳ một kỹ năng nào của việc học ngoại ngữ đều phải dùng đến từ vựng.Vì vậy từ vựng
Tiếng Anh là nguồn vốn, là sản phẩm vô giá, là công cụ chính cho người dùng. Trong một bài học môn học Tiếng Anh, hầu hết tiết học nào cũng có phần “giới thiệu từ vựng” . Để bài học đạt kết quả cao, học sinh phải nắm rõ cách phát âm cũng như cách dùng của các từ. Muốn thế giáo viên cần lựa chọn các phương pháp dạy từ vựng phù hợp với từng loại 7
từ để sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và dễ sử dụng. Tôi đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu viết về phương pháp cùng với những trải nghiệm trong quá trình giảng dạy. Tôi đã rút ra được một vài kinh nghiệm trong việc gây hứng thú cho học sinh học Tiếng Anh qua các giờ dạy từ vựng ở cấp Tiểu học. Đây là kinh nghiệm mà tôi tâm đắc nhất và tôi đã mạnh dạn chọn nó để làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm cho mình. 2. Cơ sở thực tiễn: Vào đầu năm học 2015 - 2016 tôi được phân công dạy môn Tiếng Anh cho khối 3 là 3 – 4 – 5 ở Trường TH-THCS Mò Ó. Ngành và nhà trường đã tạo điều kiện thuận lợi cho bản thân tôi được tham gia các lớp chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy ở cấp Tiểu học, đi tập huấn, dự các tiết thao giảng chuyên đề, nghiên cứu, thảo luận việc đổi mới PPDH ở cụm và huyện. Từ đó tôi đã học tập được những phương pháp dạy học theo hướng đổi mới. Những phương tiện giúp các em học và rèn luyện cho bộ môn Tiếng Anh không còn là vấn đề nan giải. Điều kiện trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học bộ môn Tiếng Anh khá đầy đủ như: máy chiếu, đài catset, sách giáo khoa, sách bài tập… Bản thân luôn được sự quan tâm, giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, của các anh chị em đồng nghiêp. Tình hình chung học sinh cấp Tiểu học Trường Mò Ó mà tôi trực tiếp giảng dạy đa số các em chăm học và ngoan. Bên cạnh đó một số cá biệt học sinh
vẫn còn thiếu kiên nhẫn trong học tập, còn chây lười, ỷ lại và mang tính thụ động. Đại đa số học sinh là con em đồng bào dân tộc thiểu số nên điều kiện tiếp xúc với phương tiện thông tin còn hạn chế, gia đình phụ huynh cũng chưa có sự quan tâm nhiều đến việc học ngoại ngữ của con. Để thực hiện phương pháp thực nghiệm tôi đã tiến hành khảo sát vốn từ vựng bộ môn Tiếng Anh đầu năm đối với học sinh 3 khối 3-4-5 như sau: - Số học sinh nói đúng: 60% - Số học sinh viết đúng: 45% 8
- Học sinh đạt yêu cầu về nghe, nói, đọc, viết: 50% - Học sinh hứng thú học từ vựng: 65% - Một số học sinh còn rụt rè trong giao tiếp, vốn từ vựng và cách nhớ từ còn hạn chế. Một số học sinh chỉ nói theo chứ không viết đúng, học còn trầm, chậm. Trước tình hình đó tôi đã mạnh dạn thử nghiệm nhiều phương pháp dạy từ vựng khác nhau với mục đích giúp các em chủ động nhớ từ, vận dụng từ và hứng thú học từ hơn trong các giờ dạy có từ vựng. CHƯƠNG 2: NỘI DUNG VÀ GIẢI PHÁP Theo phân phối chương trình hiện nay, môn tiếng Anh tiểu học mỗi tuần 04 tiết, mà hầu như tiết nào cũng có từ mới trong bài học và kể cả trong bài tập. Muốn dạy tốt từ vựng để tiết học sinh động hơn, Giáo viên phải làm tranh ảnh, đồ dùng để minh hoạ, tạo điều kiện cho các em nhớ từ dễ dàng và hướng sự chú ý của các em vào chủ đề hay trọng tâm bài học. Về sự phân bố tiết trong tuần, một buổi các em phải học hai tiết tiếng Anh liên tiếp, phải tải một số lượng từ rất nhiều. Điều này chắc chắn sẽ gây tâm lý quá tải cho một số học sinh, gây ảnh hưởng rất nhiều đến tiết học sau. Về phía học sinh, bên cạnh một số em học hành nghiêm túc, có không ít học sinh chỉ học hoa loa, không khắc sâu được từ vựng vào trong trí nhớ, không
tập đọc, tập viết thường xuyên, không thuộc nghĩa hai chiều. Đến khi giáo viên yêu cầu các em sẽ không thành công. Về phía gia đình học sinh, cũng rất khó khăn trong việc kiểm tra hoặc hướng dẫn các em tự học ở nhà. Bởi vì vậy là môn ngoại ngữ, không phải phụ huynh nào cũng biết. Đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn trong quản lý việc học ở nhà của học sinh. Ngoài ra, cách học từ vựng của học sinh cũng là điều đáng được quan tâm, học sinh thường học từ vựng bằng cách đọc từ bằng tiếng Anh và cố nhớ nghĩa bằng tiếng Việt, có viết trong tập viết cũng là để đối phó với giáo viên, chứ chưa có ý thức tự kiểm tra lại mình, để khắc sâu từ mới và vốn từ sẵn có. Vì thế cho nên, các em rất mau quên và dễ dàng lẫn lộn giữa từ này với từ khác. Do vậy, nhiều học sinh đâm ra chán học và bỏ quên. Cho nên giáo viên cần chú ý đến tâm lý này của học sinh. 9
Vì là giáo viên mới ở trường, môn học này cũng là một môn học mới lạ với các em nên bước đầu tôi chưa thực sự hiểu tình hình học của học sinh của mình. Sau khi vào chương trình dạy hết 5 tuần, tôi nhận thấy học sinh có phần gặp nhiều khó khăn vì vậy tôi cần phải đi sâu vào tìm hiểu các em hơn nữa. Cần phải nắm rõ được các em muốn gì, các em cần gì và quan trọng hơn là phải nắm rõ được những phương pháp dạy từ vựng tôi đã áp dụng từ đầu năm đến thời điểm này đối với các em như thế nào. Phương pháp đó có phù hợp, có khiến các em học từ vựng một cách nhanh và ghi nhớ lâu hay không. Tôi đã tiến hành một đợt điều tra nhỏ để thống kê sở thích của học sinh đối với các phương pháp dạy từ vựng ở cả ba khối 3 – 4 – 5 thì có kết quả như sau: BẢNG THỐNG KÊ PHƯƠNG PHÁP DẠY TỪ VỰNG TIẾNG ANH GIÚP HỌC SINH HỨNG THÚ 1. Sử dụng tranh ảnh
70%
2. Sử dụng vật thật
85%
3. Sử dụng điệu bộ
60%
4. Thông qua tình huống hoặc giải thích
20%
5. Dùng từ đồng nghĩa/ trái nghĩa
35%
6. Dịch nghĩa
25%
7. Trò chơi
85%
Bảng thống kê phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh giúp học sinh hứng thú Từ kết quả của đợt thống kê, tôi đã cố gắng áp dụng những phương pháp dạy từ vựng mà các em thích thú nhiều hơn trong các tiết dạy từ. Sự thay đổi này
khiến các em rất hứng khởi vừa khiến các em dễ hiểu, nắm được cách đọc và nghĩa của từ nhanh hơn, biết cách áp dụng từ vừa mới học một cách khoa học, ghi nhớ lâu dài từ đó. Cố gắng giúp các em đến gần hơn với môn học, yêu thích và chú tâm hơn khi học môn học này. 1. Nguyên nhân: Thực tế việc tiếp nhận một ngôn ngữ giao tiếp mới ngay từ Tiểu học đối với các em là rất khó. Mức độ nhận thức của các em còn thấp, chất lượng học 10
tập bộ môn không đồng bộ. Học sinh ở miền núi như học sinh của tôi gia đình điều kiện còn khó khăn, các em không có cơ hội cũng như không có thói quen đọc thêm sách báo khi ở nhà để bổ sung, mở rộng và nâng cao kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngôn ngữ mới, trong khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt Tiếng Việt ở trường nên việc học môn này càng khó hơn bội phần. Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc Tiểu học chỉ là môn học phụ, thế nên bản thân học sinh và ngay cả phụ huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng Việt. Kiến thức về từ vựng và khả năng lưu nhớ các cấu trúc câu của các em chưa cao, cứ qua một bài học khác, khi hỏi lại bài cũ thì các em đã quên hết hoặc là chỉ nhớ một phần rất ít từ vựng và cấu trúc câu. Bởi do lỗ hỏng kiến thức đó mà các em thường hay ngại ngùng khi nói trước đám đông. Các em sợ sai, không chắc chắn vào kiến thức của mình. Việc bắt các em gò mình vào học thuộc, ôn đi ôn lại một mẫu câu khô khan cứng nhắc không giúp các em học tốt lên mà chỉ khiến các em mệt mỏi và nản chí. Đối với các em khối 5, môn học Tiếng Anh chỉ là một môn tự chọn trong chương trình. Các em chỉ được học 2 tiết Tiếng Anh trong một tuần. Lượng thời gian quá ngắn trong khi lượng kiến thức lại khá dài. Các em không có nhiều thời gian để luyện tập giao tiếp, đàm thoại, bồi dưỡng cho kỹ năng nghe
– nói. Còn đối với các em nhỏ khối 3-4, vẫn còn rất nhiều em đọc viết Tiếng Việt còn chưa trôi chảy, lưu loát, suy nghĩ nghĩa của từ còn chậm. Nên khi cô giáo giải thích nghĩa của từ vựng từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt, các em hiểu chậm thậm chí hiểu sai. Ghi chép còn nhẫm lần giữa các chữ cái như “b – d/ p – q”. Trong Tiếng Anh có một vài chữ cái lạ như “w, f, z” khiến các em khó viết khi ghi chép. Một vài em đến giờ vẫn chưa phát âm rõ được chữ cái trong Tiếng Việt nên khi phát âm sang Tiếng Anh các em bị vấp rất nhiều lỗi. Càng thúc ép các em ôn đi ôn lại chỉ khiến các em càng chán nản và nói sai nhiều hơn. 11
2. Giải pháp Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thực tế những phương pháp giảng dạy từ vựng Tiếng Anh, tôi nhận thấy học sinh của mình đã có nhiều thay đổi tích cực, tiến bộ. Tôi đã tiến hành các biện pháp sau: 3.1 Các bước để giới thiệu từ mới: Bước 1: Thâm nhập nắm chắc chương trình môn Tiếng Anh lớp 3-4, nghiên cưú kỹ nội dung từng bài để có kế hoạch làm đồ dùng cho giờ dạy sôi động, hấp dẫn và lôi cuốn. Bước 2: Phối hợp với học sinh và duy trì ngôn ngữ giao tiếp với học sinh bằng cách đặt câu hỏi học sinh trả lời. Bước 3: Lựa chọn và phân loại từ Bước 4: Sử dụng các thủ thuật linh hoạt để giới thiệu nghĩa của từ. Bước 5: Kiểm tra việc hiểu và nắm nghĩa của từ. Bước 6: Luyện tập từ của học sinh. Bước 7: Kiểm tra mức độ hiểu biết và nắm được từ của một số học sinh yếu nếu cần thiết. 3.2. Các phương pháp để giới thiệu nghĩa của từ vựng: a. Lựa chọn từ để dạy:
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú. Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu là chủ yếu nói đến ngữ pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau, luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên dạy và giới thiệu từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo viên cần xem xét những vấn đề: - Từ chủ động (active vocabulary) - Từ bị động (passive vocabulary)
12
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn. Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động. - Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là: + Form. + Meaning. + Use. Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ. -Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ
của học sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ. - Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau: + Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ? + Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ? - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh. - Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh hiểu nghĩa từ đó ngay. - Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì bạn nên yêu cầu học sinh đoán. Với sự đa dạng của từ, tôi đã đầu tư trong việc lựa chọn từ thích hợp, có vai trò chủ động để hiểu được nội dung chính của bài học. Vì thế trong mỗi tiết 13
dạy tôi chỉ cho các em 5-8 từ chủ động, vì thực tế có bài có đến 10-15-20 từ mới, nếu đưa ra quá nhiều học sinh sẽ không nhớ nỗi. b. Các bước tiến hành giới thiệu từ mới: Có nhiều phương pháp giới thiệu từ vựng nhưng giới thiệu bằng cách nào cho phù hợp với từ, với đối tượng để học sinh dễ nhận biết và phát huy được tính tích cực ,tìm tòi, đoán nghĩa của học sinh. Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề: đây là bước khá quan trọng trong việc dạy từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu. Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe, nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác
“nghe”. Hãy nhớ lại quá trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói quen học từ mới một cách tốt nhất: - Bước 1: “nghe”, giáo viên cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu. - Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần giáo viên mới yêu cầu học sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại ,giáo viên cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau đó mới gọi cá nhân. - Bước 3: “đọc”, giáo viên viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc. Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực mà giáo viên cho là đạt yêu cầu. - Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi giáo viên mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở. - Bước 5: giáo viên hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt. - Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm tiết có trọng âm và đánh dấu. - Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học. 14
c. Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới: Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới như: 1. Visual (nhìn): Giáo viên chuẩn bị tranh ảnh cho học sinh nhìn và học từ vựng từ những bức tranh đó, phương pháp này giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng. - Khi dạy những từ cần hình ảnh , tôi đã dùng tranh để giới thiệu. Ví dụ: Ở bài Unit 2 – Tiếng Anh 4, khi dạy về quốc tịch các nước tôi đã dùng tranh để minh họa lá cờ và con người của từng nước để các em có thể dễ dàng hình
dung và ghi nhớ đất nước đó hơn
2. Realia (vật thật): Giáo viên sử dụng những dụng cụ trực quan thực tế có được để giới thiệu từ vựng cho học sinh. Ví dụ: Ở bài Unit 8 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các dụng cụ học tập của học sinh như bút (pen), thước (ruler), hộp bút (pencil case), cặp sách (school bag)… tôi đã sử dụng chính những dụng cụ học tập của các em để dạy về từ vựng. Vì phần lớn tất cả các em đều có những dụng cụ này nên khi tôi giới thiệu và gọi tên bằng Tiếng Anh từng đồ vật thì các em rất thích thú. Nhiều em cầm từng đồ vật cụ thể của mình và gọi tên chúng rất tự nhiên. 3. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ, cử chỉ Ví dụ: Ở bài Unit 10 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các trò chơi như bóng đá (football), nhảy dây (skip), trốn tìm (hide- and-seek), bịt mắt bắt dê (blind 15
man’s bluff), bóng bàn (table tennis)…tôi đã thực hiện các hành động về những trò chơi đó rồi cho học sinh đoán xem đó là trò gì và gọi tên những trò chơi đó bằng Tiếng Anh. Tôi yêu cầu học sinh lặp lại hành đồng đó và gọi tên trò chơi bằng Tiếng Anh. Với phương pháp này, học sinh nhớ khá nhanh và rất thích thú khi được bắt chước theo hành động của các trò chơi. Sử dụng hình thức này tôi đã thể hiện rõ ràng, tự nhiên giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhận biết và rất hứng thú học.
Play badminton (cầu lông)
Play hide-and-seek (chơi trốn tìm)
4.Drawing (Vẽ phác họa)
Ví dụ: ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 3: khi dạy về các từ vựng về nhà cửa tôi đã vẽ minh họa lên bảng một ngôi nhà có các phòng, vườn cây, ao nước cụ thể để các em dễ hình dung và dễ nhớ hơn.
5. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa): Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa. Một phần giúp học sinh liên tưởng đến những từ đã học, vừa nắm được nghĩa của từ mới. Ví dụ: 16
thấp – cao (short – tall) mâp - ốm (fat- slim) nóng – lạnh (hot-cold) to – nhỏ ( big – small) 6. Situation / explanation: Giáo viên sử dụng tình huống(situation) hay giải thích(explanation) để giới thiệu từ vựng cho học sinh. Ví dụ: Ở bài Unit 12 – Tiếng Anh 4, tôi đã dùng những từ vựng các em đã học hoặc dùng một giáo viên cụ thể trong trường để giới thiệu từ vựng mới cho các em - a teacher (giáo viên) : Ms. Hien is a…..(teacher). - a student (học sinh) : You are a ….(student). - hospital (bệnh viện) : Doctor works in a….(hospital). 7. Example (nêu ví dụ) Ngoài ra tôi còn sử dụng tình huống giảng giải, dạy từ trong ngữ cảnh, giải thích từ bằng những Tiếng Anh đơn giản, nhiều em rất tích cực trong việc đoán từ. 8. Translation (dịch): Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi
không còn cách nào khác, thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ đó. Đối với những từ trừu tượng tôi dùng phương pháp dịch thuật như: Ví dụ: friendly (thân thiện), scary (làm sợ hãi), usually ( thông thường), wonderful ( kỳ diệu)… 9.Compound word ( từ ghép): Tôi đã giúp học sinh học thêm về những từ mới khác bắt nguồn từ những từ vựng đơn giản mà các em đã học ở những bài trước. Để minh họa, tôi đã vẽ những bức hình đơn giản để các em dễ dàng hình dung và cảm thấy thích thú hơn. 17
Ví dụ: rain (mưa) + bow (nơ)
rainbow (cầu vòng)
sun ( mặt trời) + flower (hoa) sunflower (hoa hướng dương)…
d/. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới: Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là một vài thủ thuật kiểm tra từ mới: + Rub out and remember: Hình thức này đã thực sự giúp học sinh nhớ từ ngay tại lớp. + Slap the board: Hình thức này đã giúp học sinh nhận ra từ vựng qua nghe hiểu và kiểm tra việc hiểu nghĩa từ của học sinh. Học sinh làm việc theo nhóm. Nhóm nào cũng muốn chiến thắng vì vậy các em hoạt động rất nhanh
nhẹn và sôi nỗi. + What and Where: Tôi đã gợi ý để học sinh đưa ra được từ vựng rồi viết chúng vào các vòng tròn lên bảng, lần lượt (đọc-xoá-đọc) và tôi yêu cầu học sinh phải nhớ được từ và vị trí của nó để lên viết lại. Thoạt đầu một số em yếu còn nhút nhát nhưng dần về sau nhiều em đã rất mạnh dạn và muốn lên bảng để viết. Hình thức này đã giúp học sinh ghi nhớ và ôn luyện từ bằng cách viết từ
18
+ Matching words: Tôi yêu cầu học sinh nối nghĩa tiếng Việt với tiếng Anh hoặc với tranh. Phương pháp này tiết kiệm được thời gian và học sinh rất hào hứng làm việc, 90% học sinh xung phong lên bảng để nối, kể cả những em rất yếu. + Guessing pictures (đoán tranh): Phương pháp này đã giúp nhiều học sinh cùng nói và luyện từ mới một cách có ý nghĩa. + Bingo: Bằng cách này tôi đã giúp học sinh luyện tập được kỹ năng nghe và nối âm thanh nghe được với từ đúng. Học sinh thực hành rất sôi nỗi. Thậm chí học sinh còn đề nghị giáo viên cho làm lại để quyết giành chiến thắng. + Noughts and croses: Tôi đã dùng hình thức này để kiểm tra việc vận dụng từ mới trong câu và thực sự gây hứng thú học tập cho học sinh và đạt hiệu quả cao về học tập từ. + Jumbled words: Bằng cách kiểm tra này tôi đã giúp học sinh luyện tập viết đúng chính tả của từ. Học sinh phải sắp xếp được các chữ cái lộn xộn thành một từ có nghĩa. + Taboo (trò chơi có thể hiểu như trò "Đuổi hình bắt chữ"): Trò chơi "Taboo" được tổ chức rất đơn giản. Học sinh được ngồi theo nhóm với một chồng thẻ từ mới úp xuống. Một học sinh lật thẻ lên và cố giải thích, ví dụ… để khiến những bạn khác nhớ ra từ mới. Học sinh đoán được từ mới ấy sẽ nhận được
thẻ đó và bắt đầu một lượt chơi khác. Cuối buổi học, người chiến thắng là người nhận được nhiều thẻ từ mới nhất. + Hot seat (Ghế nóng): Trò chơi được tôi sử dụng nhiều để giúp học sinh ôn từ và khuấy động không khí (warm - up). Lớp học được chia làm hai đội. Mỗi đội cử một bạn lên bảng, ngồi lên một chiếc ghế quay lưng với cả lớp. Các bạn còn lại trong đội cố gắng diễn tả từ vựng bằng cách diễn giải, ví dụ… để thi xem ai đoán ra nhanh hơn. Việc mỗi đội cố gắng diễn tả từ vựng khiến Vỡi những hình thức kiểm tra trên kết hợp với một số trò chơi tôi đã tổ chức cho các em, tôi nhận thấy các em hứng thú hơn với việc học từ vựng, ghi nhớ 19
từ nhanh và lâu hơn, đồng thời cũng rèn luyện kỹ năng viết và sử dụng từ cho các em. Trong quá trình hướng dẫn học sinh học từ, nhớ từ và vận dụng từ tôi luôn theo dõi thái độ và kết quả của học sinh để có sự điều chỉnh bổ sung cho việc nâng cao giờ dạy từ vựng. Tôi thường đưa bài tập luyện từ từ dễ đến khó để nâng cao dần trình độ và kỹ năng sử dụng từ cho các em(đặc biệt là đối tượng khá, giỏi). Các dạng bài tập tôi thường cho các em làm như sau: - Gap fill: học sinh điền từ vào chỗ trống để hoàn thiện một câu hoặc một đoạn văn. - Choose the best answer: Học sinh chọn đáp án đúng nhất trong các đáp án gợi ý. - Put words in the right order: Học sinh sắp xếp các từ xáo trộn thành câu hoàn chỉnh. - Listen and choose the best answer: Học sinh lắng nghe một đoạn bang và chọn đáp án đúng nhât. Với những bài tập này, một số học sinh khá, giỏi đã thể hiện năng lực, trí tuệ của mình và các em làm việc rất tích cực, chủ động. Còn những em khác có thể học hỏi ở bạn khi làm nhóm hoặc thực hiện bài tập nhiều lần để quen với
những dạng bài tập này. Đây phần lớn là những dạng bài được dùng trong đề thi học kỳ nên khi được làm một cách thường xuyên, các em đều quen dần và không có sự bỡ ngỡ khi làm bài thi học kỳ. CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Mục đích của việc áp dụng những phương pháp dạy từ vựng này là để giúp học sinh học từ vựng một cách nhanh chóng và ghi nhớ dài lâu, nâng cao chất lượng việc học từ vựng cho học sinh. Việc giới thiệu từ vựng tuy chiếm lượng thời gian không nhiều song chúng có vai trò hết sức quan trọng, tạo tiền để cho học sinh nắm vững và sử dụng ngôn ngữ sau này. Người giáo viên với vai trò của người hướng dẫn phải sử dụng những kỹ năng sao cho phù hợp trong quá trình giới thiệu từ vựng để đạt được mục đích mà bài học đề ra. 20
Trong quá trình soạn bài, nhiệm vụ của người giáo viên phải lựa chọn kỹ năng, kỹ thuật thích hợp, chuẩn bị kỹ càng cho các lời dẫn gợi mở, các vật dụng cần thiết liên quan đến việc giới thiệu từ và chọn cách kiểm tra từ sao cho phù hợp gây hứng thú cho học sinh. Qua việc áp dụng các phương pháp dạy từ mới trong quá trình giảng dạy Tiếng Anh của trường TH Mò Ó năm học này, tôi nhận thấy có sự chuyển biến rõ rệt về thái độ học tập cũng như chất lượng của học sinh trong các tiết học Tiếng Anh. Sự thay đổi đó được thể hiện cụ thể như sau: Học Tiếng Anh và ghi nhớ một số lượng từ vựng Tiếng Anh đối với các em ở bậc Tiểu học là một điều khó. Vậy làm sao để các em dễ hiểu, dễ nhớ, hứng thú trong quá trình học? Qua bài SKKN này, tôi muốn giới thiệu và đưa ra những phương pháp giúp học sinh ghi nhớ nhanh các từ vựng một cách dài lâu và hiệu quả. Sau khi sử dụng các phương pháp tôi nhận thấy: - Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn. - Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học. - Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
- Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
-Học sinh có tự tin hơn khi trình bày quan điểm trước lớp. -Thích nói Tiếng Anh khi chào hỏi, yêu cầu, nhờ bạn một việc gì đó và xin phép -Phản ứng nhanh hơn trước, nhớ từ nhiều. -Hát thành thạo các bài Tiếng Anh trong chương trình. -Số lượng tham gia xây dựng bài ngày càng tăng từ 60% - lên 85%. -70% học sinh hiểu bài ngay tại lớp và khả năng thực hành tốt các yêu cầu của giáo viên 21
-Học sinh hăng hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị ở nhà chu đáo hơn. Thông qua quá trình nghiên cứu và vận dụng đề tài “Dạy Từ vựng Tiếng Anh tiểu học” tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau: -Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học sinh và chất lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo hướng đổi mới phù hợp với học sinh của mình. -Ngoài ra giáo viên còn có thể khai thác các trang Web hỗ trợ việc học và dạy môn Tiếng Anh trên trang mạng xã hội. Nguồn tài nguyên công nghệ thông tin đang ngày một phong phú và rộng khắp, dễ khai thác và khai thác rất nhanh. Giáo viên muốn dạy tốt môn Tiếng Anh thì cần tận dụng tối đa nguồn tài nguyên này. Từ thông tin từ vựng, từ hình ảnh sống động đến các phương pháp giảng dạy có rất nhiều trên Internet, giáo viên có thể vào trang Web “www.tieuhoc.info” là trang Web có nhiều phương pháp dạy từ vựng
Tiếng Anh mới và các phương pháp, tài liệu dạy Tiếng Anh Tiểu học rất phong phú đa dạng. Giáo viên trong giờ dạy có thể sự dụng nguồn tư liệu này một cách dễ dàng làm cho bài dạy sinh động lôi cuốn học sinh hơn. “www.thuvienviolet.com” là diễn đàn dành riêng cho giáo viên ở tất cả các lĩnh vực không riêng gì môn Tiếng Anh. -Và rất nhiều trang Web khác mà giáo viên có thể chia sẽ cùng nhau. Bên cạnh đó có rất nhiều đĩa dạy học Tiếng Anh bằng hình ảnh do người bản địa kết hợp với người Việt dạy rất phong phú và phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Bộ đĩa học Tiếng Anh bằng hình ảnh: Fun with English, Go’s go, ABC English for children. Các bộ phim hoạt hình, các trò chơi hoạt hình bằng Tiếng Anh…Các loại băng đĩa này khi áp dụng vào việc giảng dạy trẻ học Tiếng Anh rất bổ ích. Sử dụng nguồn tài nguyên công nghệ thông tin này không những giúp trẻ học tốt môn Tiếng Anh mà còn giúp trẻ tiếp cận sớm với công nghệ thông tin. Trẻ sẽ sớm biết cách khai thác nguồn thông tin vô 22
hạn này, khi tiếp cận thông tin không những giáo viên thích thú trong giảng dạy mà học trò cũng say sưa với việc học. Nhưng cái gì cũng có hai mặt của nó, hình thức học này rất lôi cuốn trẻ nên giáo viên và các bậc phụ huynh phải biết cách hướng dẫn và kèm cặp trẻ trong quá trình tiếp cận. -Cần chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ mĩ. Tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả. -Sử dụng các phương pháp dạy từ vựng lôi cuốn, tổ chức nhiều trò chơi hay dạy cho các em những bài hát vui nhộn để tăng cường vốn từ vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích môn học. Hệ thống cho học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng. -Khuyến khích học sinh đổi sang Tiếng Anh những điều các em nói bằng Tiếng Việt đồng thời sử dụng Tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm bạn học tập ở nhà.
-Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và có tham gia phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ động viên các em còn yếu kém và kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ của các em một cách nhẹ nhàng, để các em không bị mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười học. -Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và trò phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài. -Cập nhập thông tin liên quan đến phương pháp giảng dạy Tiếng Anh trong trường Tiểu học. -Bản thân giáo viên luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng nghiệp những kinh nghiệm trong giảng dạy. -Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học, các trang thiết bị trong phòng Tiếng Anh. -Thực tế cho thấy, phương pháp giáo dục Tiếng Anh theo khuynh hướng giao tiếp rất khó áp dụng cho một lớp học có sĩ số đông hoặc cho các em học 23
sinh người dân tộc. Ngoài việc phải vận dụng có nghệ thuật phương pháp giáo dục như đã nêu trên, một tiết học muốn thành công còn phải phụ thuộc rất nhiều yếu tố bên ngoài, trong đó cơ sở vật chất, thiết bị và trình độ học sinh là những yếu tố cơ bản. Muốn vậy, trước hết giáo viên phải nắm được mục tiêu của tiết học, nội dung tiết học, phương pháp kiểm tra đánh giá của tiết học. Ngoài ra, giáo viên phải hiểu được đặc điểm của học sinh xem họ còn thiếu những gì để đạt được mục tiêu của tiết học. Và để việc giảng dạy Tiếng Anh có hiệu quả hơn, ngoài việc đổi mới chương trình, phương pháp thì việc cần phải làm ngay là phân loại trình độ Tiếng Anh đầu vào của học sinh, chia nhỏ lớp theo trình độ, giới hạn sĩ số lớp và phân bổ thời gian dạy hợp lý.
Sau khi tôi áp dụng những phương pháp dạy từ vựng một cách linh hoạt trong các tiết học, thật bất ngờ, các em tỏ ra rất háo hức khi được học từ vựng, các em cởi mở hơn, không còn rụt rè nữa và cũng tham gia bài học tích cực hơn, trong thời gian gần đây học sinh có nhiều tiến bộ ở môn Tiếng Anh. Tuy kết quả chưa thật cao nhưng những tiến bộ bước đầu giúp tôi hưng phấn hơn trong công tác. Một điều thật thú vị là sau giờ học, đôi lúc tôi bắt gặp các em chỉ tay vào một vài vật dụng hoặc sự vật gì trên đường và gọi tên chúng bằng những từ vựng Tiếng Anh mà các em đã được học một cách rất vui vẻ và tự nhiên. Qua đó, tôi nhận thấy vốn từ vựng đã đi sâu vào các em một cách khác nhẹ nhàng và tạo niềm vui hứng khởi cho các em. Theo tôi, những phương pháp mà tôi đã áp dụng đã đem lại một hiệu quả nhất định, giúp học sinh tăng vốn từ cũng những khả năng nhớ lâu lượng từ đó một cách dễ dàng. Việc áp dụng các kĩ năng trên trong giờ giảng nhằm nâng cao kết quả học tập của học sinh, chất lượng bộ môn đã được nâng cao. Năm học 2015-2016: Lớp 5A đạt Lớp 4A đạt 24
Lớp 4B đạt Lớp 3A đạt Lớp 3B đạt Lớp 3C đạt
PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Là một giáo viên Tiếng Anh Tiểu học tôi luôn trăn trở làm thể nào để dạy cho học sinh hiểu và nắm chắc kiến thức mà các em không cảm thấy áp lực. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ việc trau dồi phương pháp không phải là của
riêng ai mà là vấn đề chung cho mọi giáo viên. Cùng một vấn đề song người thầy phải làm thế nào để nó đơn giản nhất, dễ hiểu nhất, gây hứng thú nhất khi truyền đạt cho các em, giúp các em hiểu và khắc sâu kiến thức. Trong các phương pháp dạy học hay của các bạn đồng nghiệp mà tôi đã học hỏi và qua thực tiễn dạy học tôi muốn góp phần công sức nhỏ bé của mình trong phương pháp dạy từ vựng Tiếng Anh ở học sinh Tiểu học . Tuy nhiên một phương pháp giáo dục cố định không thể là chìa khoá chung cho mọi giáo viên mà phải tuỳ thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối tượng học, nội dung học để mỗi giáo viên cần điều chỉnh các hoạt động giảng dạy hợp lý như nhà bác học Newton đã từng nói “Những điều ta biết chỉ là giọt nước, những điều chưa biết đó là đại dương. Trên con đường chiếm lĩnh tri thức thì không có đâu là bến bờ. Và trên con đường chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức thì mỗi người lại có những phương pháp khác nhau”. Chúng ta không thể có một phương pháp cụ thể cứng nhắc áp dụng cho tất cả các đối tượng mà phải phụ thuộc vào trình độ nhận thức, năng khiếu, sở thích, niềm say mê với môn học mà người dạy và người học chọn cho mình phương pháp riêng để học tập và giảng dạy. Vì vậy bên cạnh những điều đã làm được thì tôi nhận thấy đề tài của mình vẫn còn nhiều điểm thiếu sót và cứng nhắc cần phải được 25
Skkn gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
doc
29 trang
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
CHƯƠNG I
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Cơ sở lí luận:
Đ
ường lối quan điểm của Đảng và nhà nước ta đã xác định mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người toàn diện để đáp ứng yêu cầu chung của
đất nước - công nghiệp hóa hiện đại hóa. Trong đó, ngoại ngữ - tiếng Anh là một trong những ngôn ngữ có vai trò như một phương tiện tích cực hỗ trợ hiệu quả nhất cho quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng của nước nhà. Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn tiếng Anh nói riêng là một trong những mối quan tâm hàng đầu của sự nhgiệp giáo dục hiện nay. Và điều đó được đặt biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học sinh ở bậc tiểu học người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ. - Để thực hiện mục tiêu này cần có hỗ trợ của Đảng, nhà nước, ngành giáo dục, nhất là đội ngũ các thầy cô giáo và các bậc phụ huynh học sinh góp sức. - Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà không biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình trạng này ? Làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức, cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục.
2. Cơ sở thực tế bộ môn: - Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài, đối phó trong khi các em học rất yếu môn này. Từ đó, một số em có tâm lý chán học bộ môn tiếng anh. Trong các giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học. -
Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn
thấp, chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh ở vùng nông thôn chỉ quen cách học cũ ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 1
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
rộng bổ sung, nâng cao kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một ngoại ngữ, trong khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt tiếng mẹ đẻ của mình. - Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học chỉ là môn học phụ tự chọn, thế nên bản thân học sinh và ngay cả phụ huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng việt + …. Tuy tiếng Anh ở bậc tiểu học là môn học tự chọn. Song, nó có tính chất khởi đầu quan trọng trong các năm học tiếp theo ở cấp II. Vì thế nó giữ một vai trò không nhỏ trong quá trình học tập của các em. Nó trang bị cho các em vốn từ vựng, ngữ pháp và những mẫu câu tối thiểu, cơ bản, đơn giản nhất xoay quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen thuộc, là những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ điểm gia đình, và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Chính vì thế việc gây hứng thú và củng cố kiến thức cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng thường xuyên. Bởi điều này ảnh hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học sinh, một yếu tố tác động cơ bản đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có động cơ trẻ sẽ không học - và việc củng cố kiến thức còn làm khắc sâu hơn những ngữ liệu đã học trong các tiết học một cách có hệ thống, làm nền tảng vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự tin hơn trong quá trình học tập sau này. Để chất lượng môn học của các em đạt kết quả tốt nhất thì không phải là một chuyện dễ dàng. Vậy làm thế nào để các em hình thành và phát triển kỹ năng học tập toàn diện nhất ? Làm thế nào để các em yêu mến, khắc sâu vốn kiến thức văn hóa nước ngoài ? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững mà không nhàm chán, phải thật sự lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái trong giờ học, gây hứng thú cho học sinh khi tiếp thu văn hoá nước ngoài mà bản thân các em chưa biết được tí gì.
3. Lí do khách quan: Ngày nay trên những phương tiện thông tin đại chúng xuất hiện rất nhiều trò chơi truyền hình thu hút đông đảo khán giả, nhất là khán giả trẻ tuổi như học sinh, sinh viên. Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 2
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Tất cả những trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình, nếu được hỏi: “Hãy kể tên các trò chơi, chương trình ca nhạc truyền hình mà em biết?” Các em sẽ trả lời vanh vách như rồng vàng, tam sao thất bản, vườn âm nhạc, nào ta cùng hát ... Vì đây là lượng khán giả trung thành nhất. Với nhiều nguyên nhân thực tế, lẫn khách quan như vậy, bằng nhiều nỗ lực của thầy và trò. Tôi đã thử tự soạn một số bài hát ngắn có giọng điệu vui dễ bắt chướt và lồng vào đó một số câu, một số từ mà các em đã học để dạy các em vừa hát vui vừa học. Thật bất ngờ, các em rất thích hát và hát rất mạnh dạn, cỡi mở hơn, không còn rụt rè nữa, các em cũng tham gia bài học tích cực hơn, trong thời gian gần đây học sinh có nhiều tiến bộ ở môn tiếng anh. Tuy kết quả chưa thật cao nhưng những tiến bộ bước đầu giúp tôi hưng phấn hơn trong công tác. Sau giờ học, một điều thật thú vị là tôi đã bắt gặp các em hát nghêu ngao những bài hát ngắn mà đã được tôi lồng các từ mới vào. Thật vậy, điều đó đã là một thành công. Vì thế năm học này, tôi quyết định chọn đề tài “GÂY HỨNG THÚ VÀ CỦNG CỐ KIẾN THỨC TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH LỚP 3 BẰNG CÁC BÀI HÁT NGẮN” và xin ghi ra đây những kinh nghiệm nhỏ nhoi của mình, có thể nó không mới nhưng tôi đã thực hiện và có một số kết quả tương đối. Mong rằng những kinh nghiệm này góp phần bổ sung và làm phong phú hơn phương pháp dạy học của các bạn đồng nghiệp.
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 3
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN VÀ NỘI DUNG CÁC BÀI HÁT TỰ SOẠN A / QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN: I. Mục tiêu: - Hướng dẫn học sinh nhớ lại phần kiến thức luyện tập đọc – nói của các bài học đã được học. - Củng cố lại cả hai mặt ý nghĩa cũng như hình thức của từ. Nắm chắc các đặc điểm từng mẫu câu, trước hết là để các em đạt hiệu quả tốt ở học kỳ, từng năm học. - Ngoài ra, các bài hát nhỏ này còn được sử dụng để giải trí nhằm tạo sự vui tươi, hưng phấn học tập cho các em hay để dạy minh họa cho những tiết học về từ vựng, trọng âm, tiết tấu, và một số điểm ngữ pháp tiếng Anh, giúp các em dễ thuộc bài hơn. Qua đó, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng, yêu thích cái đẹp của văn hoá ngôn ngữ nước ngoài nói chung và cái hay của môn học Tiếng Anh nói riêng, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách lẫn các kĩ năng toàn diện hơn. II. Chuẩn bị: - Giáo viên đọc thêm sách báo nghiên cứu kĩ các vấn đề mình sắp thực hiện. - Giáo vên tham khảo thêm những cách tổ chức hát những bài hát có tính chất trò chơi hay là từ người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động toàn thể. (Riêng tôi, bản thân từng là cán bộ phụ trách rất hiệu quả công tác Đội - Đoàn thanh niên trong suốt 8 năm khi còn là học sinh sinh viên và công tác Công Đoàn trong ba năm khi giảng dạy. Nhờ đó tôi có cơ hội tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm.) - Đồ dùng dạy học mà giáo viên phải chuẩn bị sẵn sàng và kĩ lưỡng là nội dung các bài hát tự soạn, thế cho nên giáo viên cần tóm tắt từ vựng và một số cấu trúc cơ bản trong bài học theo từng chủ điểm để lồng vào các bài hát đó, cùng với nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp. Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 4
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
III.
Biện pháp thực hiện: Sau khi chuẩn bị, tôi tiến hành như sau:
1. Soạn ra những bài hát ngắn có giọng điệu vui tươi, rộn ràng, theo giai điệu quen thuộc, dễ bắt chước để dạy cho các em. 2. Để hiệu quả hơn, tôi mạnh dạn tổ chức nhiều cách hát đa dạng phong phú (khi các em đã thuộc nhuần nhuyễn các bài hát rồi) làm tăng hiệu quả sử dụng các bài hát của các em. Học sinh hoặc giáo viên có thể giải thích sơ bộ về nội dung các bài hát cũng như cho học sinh đọc trôi chảy lại lời một lần trước khi hát. Hát mà hiểu rõ nội dung bài hát sẽ làm người hát thích thú và dễ nhớ hơn. Qua đó ngôn ngữ được lồng vào sẽ được sử dụng nhiều lần và linh hoạt hơn, khắc sâu hơn. Đây là một số các hình thức tôi đã sử dụng rất hữu hiệu như sau: Luôn tạo cho các em thói quen hát một bài hát tiếng Anh vào mỗi đầu tiết học. Thỉnh thoảng vào những lúc giữa tiết học các em bị căng thẳng, mệt mỏi do học vào tiết cuối cùng, giáo viên cũng nên bắt nhịp cho các em một hoặc hai bài hát ngắn, nhẹ nhàng với giọng điệu vui – kèm theo những tiếng vỗ tay nhịp đôi, rồi nhịp một, nhịp càng lúc càng nhanh rồi chấm dứt, nhằm trả lại sự phấn chấn, rộn ràng, vui tươi, sinh động trong lớp học. Kết hợp một vài động tác hay điệu bộ phù hợp trong lúc hát. Hát kết hợp chơi như “Hát thi” (không hát lại một trong những từ của chủ điểm đã được hát trước theo quy định của giáo viên). Hình thức hát đuổi là cách hát vui nhộn và mang tính giáo dục rất có ý nghĩa, nó gây được sự ham thích của học sinh. Hát đuổi (với 2 hoặc 4 nhóm) tạo cho người hát, các nhóm, các bè và cả người nghe một cảm giác lộn xộn lúc ban đầu khi các nhóm hát khác nhau (khác về lời nhưng nhạc vẫn đi theo một mẫu giống nhau), rồi sau cùng lại giống nhau – cùng hát một câu. Nếu hát được đúng, ta đã giúp tạo ra lòng tự tin, tính độc lập cho các em, không nghe theo, không làm theo người hát bè khác. Khi đó, chắc chắn các em sẽ rất vui và còn hãnh diện nữa…Ngoài ra vào cuối năm học, việc giới thiệu một hoặc 2 bài hát ở
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 5
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
chương trình tiếng Anh lớp 4 không những có thể giúp cho các em giải trí mà còn gây được sự hứng thú, tò mò ham thích học hỏi môn học ở các em. Như vậy, chúng ta biết rằng các phương thức để hỗ trợ cho bài học tiếng Anh không những là qua chơi trò chơi, kể chuyện, đóng kịch, đi cắm trại… mà còn qua các bài hát nhỏ nhỏ, vui vui nữa đó nhằm khuyến khích việc sử dụng tiếng Anh một cách sáng tạo thiết thực. Sử dụng được càng nhiều tiếng Anh, học hỏi thêm càng nhiều tiếng Anh càng tốt cho việc giao tiếp trong cuộc sống đời thường và trong xã hội hiện đại ngày nay. Sau đây là nội dung một số bài hát dành cho các em học sinh tiểu học mà tôi tự soạn và áp dụng trong quá trình giảng dạy của mình. B/ NỘI DUNG CÁC BÀI HÁT I. Chủ điểm giao tiếp gồm: Bài 1: HELLO Qua bài hát này học sinh sẽ thuộc được một số lời chào nhau khi gặp mặt và khi tạm biệt. Bên cạnh đó các em cũng được nhắc lại câu hỏi thăm sức khỏe người khác cũng như cách trả lời một cách lịch sự qua mẫu câu: “How are you?” – I am fine. Thank you. Bài 2: OUR NAMES Bài hát giúp học sinh củng cố lại việc giới thiệu tên mình bằng hai cách: “I am + tên” và “My name is + tên”. Đồng thời các em được nhắc lại câu hỏi tên các bạn qua cấu trúc: “What is your name?” II. Chủ điểm trường học gồm: Bài 3: MY FRIENDS Bài hát nhắc học sinh nhớ lại những đại từ nhân xưng là ngôi thứ ba số ít “he, she” và hình thái của động từ “to be” tương ứng. Bài 4: MY SCHOOL Học sinh giới thiệu về vị trí, đặc điểm của trường và lớp học của mình
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 6
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
sử dụng cách nói “This is ……… và That is ……… ”. Bài hát giúp học sinh thuộc bài một cách dễ dàng , nhanh chóng, và nhớ bài học lâu hơn. Bài 5: SCHOOL OBJECTS Thông qua bài hát này, học sinh sẽ thuộc được rất nhiều đồ dùng học tập ở trường một cách dễ dàng và thú vị như: book, ruler, eraser, pen, bag, pencil… III. Chủ điểm gia đình: Bài 6: FAMILY MEMBERS Bài hát lồng vào các từ chỉ các thành viên trong gia đình đồng thời giới thiệu nghề nghiệp của họ. Bài 7: AGES Đây là bài hát có giai điệu dễ thương mà các em rất quen thuộc và thích hát. Qua đó, củng cố lại cho các em cách hỏi và trả lời về tuổi bằng mẫu câu: “How old are you? ” và “I am + tuổi.” Bài 8: MY HOUSE Bài hát giáo dục học sinh tình cảm gắn bó với ngôi nhà của mình đồng thời củng cố kiến thức cho các em khi giới thiệu về nhà, các phòng và đặc điểm của chúng. IV. Các bài hát thuộc chủ điểm khác: (Thế giới xung quanh em) Bài 9: THE WEATHER Mục đích của bài hát này là giúp học sinh ôn lại từ và cấu trúc câu đã học về thời tiết. Bài 10: OUR PETS Qua bài hát ôn lại các từ chỉ tên các con thú cưng một âm tiết đã học như: dog, cat, fish, bird. Qua đó kết hợp giáo dục cho các em ý thức yêu thương và bảo vệ các loài động vật.
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 7
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Bài 11: HOW MANY PETS Nhằm củng cố lại cấu trúc “How many …… do you have?” và cách trả lời số luợng con thú cưng. Giúp học sinh biết một số trường hợp nào dùng danh từ số nhiều. Bài 12: OUR TOYS Mục tiêu là ôn lại cấu trúc và các từ một âm tiết về đồ chơi đã học. Đồng thời giáo dục các em có ý thức gìn giữ đồ chơi của bản thân, của người khác và biết chia sẻ đồ chơi với các bạn. Bài 13: ZOO ANIMALS Đây là một trong những bài hát thuộc chủ điểm thế giới xung quanh em của chương trình tiếng Anh lớp 4. Giai điệu của bài hát rộn ràng, vui nhộn, dễ hát giúp học sinh nhớ các từ chỉ các con vật ở sở thú và biết cách nói mình thích hay không thích con vật gì. Đồng thời củng cố cho các em cách dùng thể khẳng định, phủ định và thể nghi vấn của “Thì hiện tại đơn giản”.
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 8
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 9
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 10
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 11
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
CHƯƠNG III
KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Vào đầu năm học 2007- 2008 tôi được phân công dạy môn tiếng Anh cho khối 3 gồm 156 học sinh. Sau khi vào chương trình dạy hết 3 tuần, tôi nhận thấy tình hình học sinh tôi có phần gặp nhiều khó khăn như tôi đã trình bày ở trên (phần thực tiễn bộ môn). Và tôi đã tiến hành một đợt điều tra nhỏ để thống kê sở thích của học sinh đối với các môn học thì có kết quả như sau: Subjects (cácmôn) Vietnamese (Tiếng Việt)
Like (thích) 98 học sinh
Don/t like (không thích) 58 học sinh
Maths (Toán)
95 học sinh
61 học sinh
English (Tiếng Anh)
66 học sinh
90 học sinh
Music (Hát nhạc)
120 học sinh
36 học sinh
Science (TNXH)
92 học sinh
64 học sinh
Arts (Mĩ thuật)
100 học sinh
56 học sinh
Qua việc áp dụng các bài hát ngắn tự soạn có lồng vào nội dung bài học trong quá trình giảng dạy tiếng Anh của trường TH Bến Súc năm học này, tôi nhận thấy có sự chuyển biến rõ rệt về thái độ học tập của học sinh trong các tiết học tiếng Anh. Gần đây, tôi đã thống kê lại sở thích của các em đối với riêng bộ môn tiếng Anh và đã nhận được kết quả khả quan hơn. Đến nay hầu hết các em đều phấn khởi ham thích học môn tiếng Anh, từ chỉ có 67 em thích học tiếng Anh nay tăng lên tới 141 em và điều đó đã làm giảm được số lượng 90 em không thích học tiếng Anh xuống chỉ còn lại 15 em. Đáng mừng hơn là các em hoàn toàn khắc phục được những khó khăn trong việc đọc – nói tiếng Anh và từ đó các em tích cực hơn trong các hoạt động tham gia vào bài học. Học sinh hăng hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị ở nhà chu đáo hơn. Vì thế, kết quả theo dõi chất lượng môn học tiếng Anh của học sinh vào cuối năm cũng được nâng cao rõ rệt.
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 12
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
THỐNG KÊ KẾT QUẢ THEO DÕI CHẤT LƯỢNG TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH KHỐI 3. NĂM HỌC 2007-2008
Tháng
Giỏi
%
Khá %
TB
%
Yếu
%
Kém
%
9
36
23.1
59
37.8
34
21.8
18
11.5
9
5.8
10
38
24.3
50
32.1
51
32.7
14
9
3
1.9
11
69
44.21
35
22.43 43 27.56
9
5.8
12
80
51.3
34
21.8
37
23.7
5
3.2
KT HKI
87
55.8
48
30.8
20 12.8
1
0.6
1
81
51.9
35
22.4
36
23.1
4
2.6
2
86
55.1
37
23.8
32 20.51
1
0.6
3
90
57.7
36
23.1
29
18.6
1
0.6
4
87
55.8
48
23.1
32
20.5
1
0.6
5
88
56.4
40
25.6 28
18
CHƯƠNG IV
BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 13
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Qua việc nghiên cứu và vận dụng đề tài “GÂY HỨNG THÚ VÀ CỦNG CỐ KIẾN THỨC TRONG GIỜ HỌC TIẾNG ANH BẰNG LỚP 3 CÁC BÀI HÁT NGẮN” tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau: - Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với nghề, có trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học sinh và chất lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo hướng đổi mới phù hợp với học sinh của mình. - Chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ mĩ. Tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả. - Sử dụng các bài hát ngắn tự soạn hoặc sưu tầm, hay tổ chức nhiều trò chơi tăng cường vốn từ vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích môn học. Hệ thống cho học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ, dễ sử dụng. - Khuyến khích học sinh đổi sang tiếng Anh những điều các em nói bằng tiếng Việt đồng thời sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm bạn học tập ở nhà. -
Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và có
tham gia phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ động viên các em còn yếu kém và kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ của các em một cách nhẹ nhàng, để các em không bị mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười học.
CHƯƠNG V
KẾT LUẬN Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 14
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Bằng nhiều cố gắng và nỗ lực, với tấm lòng nhiệt huyết dành cho nghề, tôi luôn phấn đấu và tìm ra cách dạy mới để lôi cuốn học sinh ngày một thêm yêu bộ môn tiếng Anh, học tốt môn tiếng Anh. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ nhoi mà tôi đã thực hiện và đạt được kết quả khả quan trong thời gian giảng dạy vừa qua. Tuy chưa tốt lắm nhưng cũng phần nào giúp cho học các học sinh của tôi ngày càng yêu thích và gần gủi với môn học. Tôi xin chân thành trình bày và rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn nhằm bổ sung vào phương pháp giảng dạy các giờ học tiếng Anh đạt chất lượng cao hơn. Thanh Tuyền, Ngày 20 tháng 4 năm 2008. Người thực hiện
HUỲNH THỊ LỆ THẮM
CHƯƠNG VI Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 15
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
PHẦN ĐÍNH KÈM GIỚI THIỆU DANH SÁCH CÁC BÀI HÁT TIẾNG ANH TỰ SOẠN TRONG GIẢNG DẠY VÀ VUI HỌC MÔN TIẾNG ANH
1. HELLO. 2. OUR NAMES. 3. MY FRIENDS. 4. MY SCHOOL. 5. SCHOOL OBJECTS. 6. FAMILY MEMBERS. 7. AGES. 8. MY HOUSE. 9. THE WEATHER. 10. OUR PETS. 11. HOW MANY PETS. 12. ZOO ANIMALS. 13. OUR TOYS
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 16
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 17
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 18
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 19
SKKN:Gây hứng thú và củng cố kiến thức trong học tiếng Anh lớp 3 bằng bài hát ngắn
Người viết: Huỳnh Thị Lệ Thắm
Trang 20
Tải về bản full
SKKN: Phương pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn
Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu về thực trạng dạy ngoại ngữ cho học sinh tiểu học và việc học ngoại ngữ của học sinh tiểu học, hứng thú của các em đối với môn học, phương pháp học ngoại ngữ của các em. » Xem thêm
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHƯƠNG PHÁP GÂY HỨNG THÚ
HỌC TIẾNG ANH CHO HỌC SINH
TIỂU HỌC QUA CÁC BÀI HÁT
NGẮN
MỤC LỤC
PHẦN I: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ........................................................... Trang 2
I. Cơ sở lí luận .......................................................................... Trang 2
II. Cơ sở thực tiễn........................................................................ Trang 2
III. Mục đích nghiên cứu.............................................................. Trang 4
IV. Đối tượng nghiên cứu............................................................ Trang 4
V. Phương pháp nghiên cứu......................................................... Trang 5
VI. Phạm vi nghiên cứu ..... ...................................................... Trang 5
PHẦN II: NỘI DUNG ĐỀ TÀI ………................................................... Trang 6
I. Một số vấn đề về cơ sở lí luận……………………….……… Trang 6
II. Thực trạng và nguyên nhân…………………………………. Trang 7
III. Giải pháp thực hiện………………………………………… Trang 8
IV. Kết quả thực hiện……………………………………..….. Trang 13
PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................. Trang 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………... Trang 21
PHẦN I
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Đảng và Nhà nước ta đã xác định, mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người
toàn diện để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước. Trong
đó, ngoại ngữ - môn tiếng Anh, là một trong những ngôn ngữ có vai trò như một
phương tiện tích cực hỗ trợ hiệu quả nhất cho quá trình hội nhập ngày càng sâu
rộng của đất nước.
Vì vậy nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và chất lượng bộ môn tiếng
Anh nói riêng là một trong những mối quan tâm hàng đầu của sự nghiệp giáo
dục hiện nay. Và điều đó được đặc biệt chú trọng hơn cho các đối tượng là học
sinh ở bậc tiểu học - người mới bắt đầu tiếp cận với ngoại ngữ. Để thực hiện
mục tiêu này cần có hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, của ngành giáo dục, nhất là
đội ngũ các thầy cô giáo và sự góp sức của các bậc phụ huynh học sinh .
Hiện nay tình trạng xao lãng việc học, học sinh học đối phó học vẹt mà
không biết tự học, học sinh yếu kém khá nhiều. Làm thế nào để khắc phục tình
trạng này ? Làm thế nào để thu hút học sinh chú tâm vào việc học là vấn đề đòi
hỏi người làm giáo dục, các thầy cô tâm huyết với nghề, hội đồng sư phạm nhà
trường quan tâm hàng đầu, luôn nỗ lực đề ra kế hoạch, chương trình, hình thức,
cải tiến phương pháp để dạy và học tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả
giáo dục.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Tuy tiếng Anh ở bậc tiểu học hiện nay vẫn chỉ là môn học tự chọn. Song, nó
có tính chất khởi đầu quan trọng trong các năm học tiếp theo ở cấp II. Vì thế nó
giữ một vai trò không nhỏ trong quá trình học tập của các em. Nó trang bị cho
các em vốn từ vựng, ngữ pháp và những mẫu câu tối thiểu, cơ bản, đơn giản
nhất xoay quanh những chủ điểm rất gần gũi, được các em yêu thích và quen
thuộc, là những chủ điểm giới thiệu bản thân, chủ điểm trường lớp bạn bè, chủ
điểm gia đình, và chủ điểm khác (thế giới xung quanh các em). Chính vì thế việc
gây hứng thú và củng cố kiến thức cho học sinh là một việc vô cùng quan trọng
thường xuyên. Bởi điều này ảnh hưởng rất nhiều đến động cơ học tập của học
sinh, một yếu tố tác động cơ bản đến quá trình học một ngôn ngữ: Không có
động cơ trẻ sẽ không học - và việc củng cố kiến thức còn làm khắc sâu hơn
những ngữ liệu đã học trong các tiết học một cách có hệ thống, làm nền tảng
vững chắc giúp các em học tốt hơn, tự tin hơn trong quá trình học tập sau này.
Có một thực tế là, phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn
ngoại ngữ, chuẩn bị bài một cách sơ sài, đối phó trong khi các em học rất yếu
môn này. Từ đó, một số em có tâm lý chán học bộ môn tiếng Anh. Trong các
giờ học, đa số các em thường thụ động, thiếu sự linh hoạt, ngại việc đọc - nói
tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
Học sinh tiểu học là những trẻ em, mức độ nhận thức của các em còn thấp,
chất lượng học tập bộ môn không đồng bộ. Thêm nữa, học sinh ở vùng nông
thôn chỉ quen cách học cũ ít đọc thêm sách báo phù hợp lứa tuổi để mở rộng bổ
sung, nâng cao kiến thức. Đồng thời đây là những năm đầu làm quen với một
ngoại ngữ, trong khi vẫn có một số lượng không nhỏ học sinh còn chưa học tốt
tiếng mẹ đẻ của mình.
Hơn nữa Tiếng Anh ở bậc tiểu học chỉ là môn học phụ tự chọn, thế nên bản
thân học sinh và ngay cả phụ huynh cũng không quan tâm đến bộ môn này, họ
chỉ đầu tư cho con mình học nâng cao môn Toán, Tiếng việt .
Để chất lượng môn học của các em đạt kết quả tốt nhất thì không phải là một
chuyện dễ dàng. Vậy làm thế nào để các em hình thành và phát triển kỹ năng
học tập toàn diện nhất ? Làm thế nào để các em yêu mến, khắc sâu vốn kiến thức
văn hóa nước ngoài ? Bằng hình thức nào giúp học sinh nắm bài vững mà không
nhàm chán, phải thật sự lôi cuốn, tạo không khí vui tươi thoải mái trong giờ học,
gây hứng thú cho học sinh khi tiếp thu văn hoá nước ngoài mà bản thân các em
chưa biết được tí gì.
Với nhiều nguyên nhân thực tế, lẫn khách quan như vậy, bằng nhiều nỗ lực
của thầy và trò. Tôi đã sưu tầm, tìm hiểu trên mạng Internet, trong sách báo một
số bài hát ngắn có giai điệu vui vẻ, dễ bắt chước và lồng vào đó một số câu, một
số từ mà các em đã học để dạy các em vừa hát vui vừa học. Thật bất ngờ, các
em rất thích hát và hát rất mạnh dạn, cởi mở hơn, không còn rụt rè nữa, các em
cũng tham gia bài học tích cực hơn, trong thời gian gần đây học sinh có nhiều
tiến bộ ở môn tiếng anh. Tuy kết quả chưa thật cao nhưng những tiến bộ bước
đầu giúp tôi hưng phấn hơn trong công tác. Sau giờ học, một điều thật thú vị là
tôi đã bắt gặp các em hát nghêu ngao những bài hát ngắn mà đã được tôi lồng
các từ mới vào. Thật vậy, điều đó đã là một thành công.
Vì thế năm học này, tôi quyết định chọn đề tài “ Phương pháp gây hứng
thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn” để nghiên
cứu. Đây là những kinh nghiệm nhỏ của tôi, tôi đã thực hiện và đã đạt được kết
quả rất tốt. Mong rằng những kinh nghiệm này góp phần bổ sung và làm phong
phú hơn phương pháp dạy học của các bạn đồng nghiệp.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu về thực trạng dạy ngoại ngữ cho
học sinh tiểu học và việc học ngoại ngữ của học sinh tiểu học, hứng thú của các
em đối với môn học, phương pháp học ngoại ngữ của các em.
- Qua đó tìm ra điểm mạnh điểm yếu trong phương pháp học của các em,
cũng như trong phương pháp dạy của giáo viên , từ đó đề ra những giải pháp để
nâng cao chất lượng môn ngoại ngữ ở bậc tiểu học.
Xuất phát từ mục đích trên, đề tài cần giải quyết những nhiệm vụ
sau:
1- Nghiên cưú cơ sở khoa học và cơ sở thực tiễn của việc dạy và học môn
Tiếng Anh ở tiểu học
2- Thực trạng dạy Tiếng Anh ở tiểu học và nguyên nhân dẫn đến thực
trạng trên.
3- Điều chỉnh nội dung bài dạy, đề xuất hướng đổi mới phương pháp dạy
và học. Nâng cao chất lượng dạy và học bằng hệ thống các bài hát liên quan đến
mỗi nội dung bài học
4- Xác định tính hiệu quả và thực thi của việc gây hứng thú học Tiếng
Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn
IV. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng mà tôi thực hiện nghiên cứu đề tài này là đối tượng học sinh
khối 3 – Trường tiểu học Minh Tân, Thị trấn Yên Lạc, huyện Yên Lạc, tỉnh
Vĩnh Phúc.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
1- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
Đọc một số sách báo, tài liệu tham khảo, tìm trên mạng Internet các tài
liệu liên quan đến việc sử dụng các bài hát Tiếng Anh trong các tiết học.
2- Phương pháp quan sát điều tra:
Để nghiên cứu đề tài một cách sâu sắc, tôi đã điều tra thực trạng dạy và
học Tiếng Anh ở tiểu học, hứng thú của học sinh đối với môn học. Phỏng vấn và
dự giờ giáo viên tổ Tiếng Anh, kết hợp với tổ nhóm chuyên môn và ban giám
hiệu nhà trường.
3- Phương pháp dạy học thực nghiệm:
Tôi đã tiến hành dạy các tiết Tiếng Anh có sử dụng các bài hát liên quan
đến nội dung bài học.
4- Phương pháp tổng kết, đúc rút kinh nghiệm:
Sau mỗi tiết dạy sử dụng hình thức dạy học trong đề tài, tôi thường tổng
kết, rút kinh nghiệm riêng từng tiết; tiếp tục có sự thay đổi, đổi mới cho phù hợp
ở những tiết học sau. Sau mỗi giai đoạn cũng đều so sánh, tổng kết để rút ra kinh
nghiệm chung.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Áp dụng ở trong phạm vi trường tiểu học Minh Tân .
- Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 4 năm 2013
- Tài liệu sách giáo khoa, sách tham khảo, tài liệu các trò chơi, băng đài, tranh,
ảnh ( gấu, mèo… ), đĩa CD, đài, máy chiếu, máy vi tính............
PHẦN II
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
- Đối với bất kì một môn học nào, việc gây hứng thú cho học sinh, lôi cuốn
các em vào bài học là một điều rất quan trọng. Điều đó không chỉ giúp các em
hiểu bài nhanh hơn, mà còn giúp các em khắc sâu kiến thức, ghi nhớ bài học tốt
hơn. Từ đó, khả năng tư duy, khả năng tập trung của các em mới được phát
triển. Như vậy, để có một tiết dạy gây được hứng thú cho học sinh đòi hỏi giáo
viên phải có sự chuẩn bị và đầu tư nhiều hơn là tiết dạy bình thường trên lớp,
thậm chí phải có quá trình tích lũy kinh nghiệm qua thời gian mới có thể đạt
hiệu quả và thuyết phục học sinh, làm cho các em thực sự hứng thú và tập trung
vào bài giảng. Đó là yêu cầu, mục tiêu quan trọng của quá trình dạy học, đặc
biệt là đối với giáo viên môn Tiếng Anh.
- Học Tiếng Anh qua các bài hát ngắn có nội dung liên quan đến bài học sẽ
giúp học sinh nhớ lại phần kiến thức luyện tập đọc – nói của các bài học đã được
học. các em sẽ tiếp thu kiến thức một các chủ động, nhẹ nhàng và sẽ nhớ rất lâu.
- Các bài hát được sử dụng trong tiết dạy sẽ củng cố lại cả hai mặt ý nghĩa
cũng như hình thức của từ. Nắm chắc các đặc điểm từng mẫu câu. Điều đó sẽ
giúp các em đạt kết quả học tập tốt ở từng học kỳ, từng năm học.
- Ngoài ra, các bài hát nhỏ này còn được sử dụng để giải trí nhằm tạo sự
vui tươi, hưng phấn học tập cho các em hay để dạy minh họa cho những tiết học
về từ vựng, trọng âm, tiết tấu, và một số điểm ngữ pháp tiếng Anh, giúp các em
dễ thuộc bài hơn. Qua đó, bồi dưỡng tâm hồn trong sáng, yêu thích cái đẹp của
văn hoá ngôn ngữ nước ngoài nói chung và cái hay của môn học Tiếng Anh nói
riêng, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách lẫn các kĩ năng toàn diện
hơn.
- Giáo viên phải luôn có sự học tập và trau dồi nhiều về chuyên môn, cùng
với lòng quyết tâm cao mới có thể đạt được yêu cầu của công việc. Bởi vì dạy
một tiết tiếng Anh có nhiều điểm khác biệt so với dạy một tiết học bình thường.
Vì vậy, với chuyên đề này tôi đưa ra những suy nghĩ của mình với mong muốn
góp phần trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ học tập lẫn nhau để cùng tiến bộ. Đó
cũng là nội dung, mục đích hướng tới của sáng kiến kinh nghiệm.
II. THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Thực trạng:
- Chúng ta có thể thấy rằng, phương pháp học truyền thống mà giáo viên
áp dụng trên lớp, trong mỗi tiết học thường chỉ là đọc-chép. Giáo viên là người
truyền thụ kiến thức, còn học sinh là người ghi chép, tiếp thu kiến thức nhưng
một cách thụ động. Đối với bộ môn tiếng Anh, phương pháp học đã có nhiều cải
tiến, học theo phương pháp mới – Lấy người học là trung tâm. Tuy nhien cách
thức tiến hành , áp dụng của giáo viên vẫn chỉ mang tính chất dập khuôn và hình
thức. Học sinh vẫn chưa thực sự được tiếp thu kiến thức một cách chủ động.
- Là giáo viên tiếng Anh đứng lớp qua nhiều năm kinh nghiệm và nghiên
cứu giảng dạy, tôi dành nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu về chuyên
môn cũng như tính hiệu quả của giờ lên lớp, đặc biệt là đối với một giờ dạy
Tiếng Anh. Bản thân tôi chịu khó tìm tòi, nghiên cứu, tham khảo nhiều tài liệu,
về phương pháp giảng dạy môn Tiếng Anh, Các hình thức dạy học cho phù hợp
với từng tiết dạy, từng nội dung bài học…Sau đó, tôi ghi chép và tích lũy
thường xuyên. Trong và ngoài giờ dạy, tôi thường xuyên trao đổi với đổng
nghiệp để học hỏi và đúc rút kinh nghiệm cần thiết để áp dụng trong quá trình
dạy học. Tuy nhiên, chính bản thân tôi cũng đã từng đi theo lối mòn trong
phương pháp giảng dạy như đã được đề cập ở trên
- Về phía học sinh, phần đa các em đều yêu thích môn học, siêng năng và
ham học, tự giác học bài và làm bài tập ở lớp cũng như ở nhà. Luôn hăng hái
tham gia xây dựng bài. Khi được dạy một bài hát mới, các em đều hứng thú và
say sưa với bài hát. Điều đó rất hữu ích trong việc giúp các em ghi nhớ bài học.
- Những năm gần đây các kì thi tiếng Anh chủ yếu được tổ chức qua
mạng Internet, cứ mỗi tuần mở ra một vòng thi giup học sinh dể dàng vào thi và
thực sự gây hứng thú cuốn hút được các em.
- Hiện nay, việc dạy và học môn tiếng Anh đã nhận được khá nhiều sự
quan tâm từ phía nhà trường, phụ huynh học sinh cũng như của các cấp lãnh
đạo. Tuy nhiên, đối với một trường học sinh chủ yếu ở vùng nông thôn như
trường tôi, phụ huynh cũng như học sinh còn “coi nhẹ” môn Tiếng Anh, hầu hết
gia đình các em đều chưa co máy vi tính nối mang Internet, tài liệu sách tham
khảo ở thư viện còn hạn chế. Vì thế, chưa có đủ tư liệu để học sinh và giáo viên
tham khảo, nghiên cứu một cách thoải mái, dễ dàng. Đa số học sinh là con em
nông dân, gia đình còn nghèo nên cha, mẹ chỉ lo kinh tế không có thời gian quan
tâm và đôn đốc việc học của các em nên nguồn học sinh giỏi khá hạn chế.
Với những thuận lợi và khó khăn như vậy cho nên nhưng năm học trước
đây khi chưa áp dụng những kinh nghiệm dạy học: Thu hút, gây hứng thú học
tập cho học sinh qua các bài hát, thì số lượng học sinh học tốt bộ môn tiếng Anh
của các lớp còn thấp.
2. Nguyên nhân:
a.Nguyên nhân từ phía GV:
- Chưa đầu tư nhiều thời gian cho việc nghiên cứu phương pháp dạy một .
- Thời gian bồi dưỡng cho học sinh còn hạn chế.
b.Nguyên nhân từ phía HS:
- Học sinh chưa chú trọng đến môn tiếng Anh vì nó còn là môn học tự chọn.
- Học sinh chưa có đầy đủ tài liệu để học tập và tự bồi dưỡng thêm.
c.Nguyên nhân từ phía phụ huynh:
- Nhiều phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của con cái.
III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
A. CHUẨN BỊ:
- Gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh là việc làm hết sức quan
trọng trong một giờ dạy, đòi hỏi ở giáo viên lòng nhiệt tình,luôn tìm tòi học hỏi
sáng tạo, dành nhiều thời gian nghiên cứu và giảng dạy. Chính vì vậy, giáo viên
cần đọc thêm sách báo, nghiên cứu kĩ các vấn đề mình sắp thực hiện.
- Giáo vên tham khảo thêm những cách tổ chức hát những bài hát có
tính chất trò chơi hay là từ người có nhiều kinh nghiệm trong hoạt động toàn thể.
(Riêng tôi, bản thân đang là cán bộ phụ trách rất hiệu quả công tác Đoàn thanh
niên trong nhà trường. Nhờ đó, tôi có cơ hội tích lũy được khá nhiều kinh
nghiệm.)
- Đồ dùng dạy học mà giáo viên phải chuẩn bị sẵn sàng và kĩ lưỡng là
nội dung các bài hát, thế cho nên giáo viên cần tóm tắt từ vựng và một số cấu
trúc cơ bản trong bài học theo từng chủ điểm để lồng vào các bài hát đó, cùng
với nghiên cứu lựa chọn hình thức tổ chức phù hợp.
B. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH:
Sau khi chuẩn bị, tôi tiến hành như sau:
1. Soạn ra những bài hát ngắn có giọng điệu vui tươi, rộn ràng, theo giai
điệu quen thuộc, dễ bắt chước để dạy cho các em.
2. Để hiệu quả hơn, tôi mạnh dạn tổ chức nhiều cách hát đa dạng phong
phú (khi các em đã thuộc nhuần nhuyễn các bài hát rồi) làm tăng hiệu quả sử
dụng các bài hát của các em. Học sinh hoặc giáo viên có thể giải thích sơ bộ về
nội dung các bài hát cũng như cho học sinh đọc trôi chảy lại lời một lần trước
khi hát. Hát mà hiểu rõ nội dung bài hát sẽ làm người hát thích thú và dễ nhớ
hơn. Qua đó ngôn ngữ được lồng vào sẽ được sử dụng nhiều lần và linh hoạt
hơn, khắc sâu hơn. Đây là một số các hình thức tôi đã sử dụng rất hữu hiệu như
sau:
Luôn tạo cho các em thói quen hát một bài hát tiếng Anh vào mỗi đầu tiết
học. Thỉnh thoảng vào những lúc giữa tiết học các em bị căng thẳng, mệt mỏi do
học vào tiết cuối cùng, giáo viên cũng nên bắt nhịp cho các em một hoặc hai bài
hát ngắn, nhẹ nhàng với giọng điệu vui – kèm theo những tiếng vỗ tay nhịp đôi,
rồi nhịp một, nhịp càng lúc càng nhanh rồi chấm dứt, nhằm trả lại sự phấn chấn,
rộn ràng, vui tươi, sinh động trong lớp học.
Kết hợp một vài động tác hay điệu bộ phù hợp trong lúc hát. Hát kết hợp
chơi như “Hát thi” (không hát lại một trong những từ của chủ điểm đã được
hát trước theo quy định của giáo viên).
Hình thức hát đuổi là cách hát vui nhộn và mang tính giáo dục rất có ý
nghĩa, nó gây được sự ham thích của học sinh. Hát đuổi (với 2 hoặc 4 nhóm) tạo
cho người hát, các nhóm, các bè và cả người nghe một cảm giác lộn xộn lúc ban
đầu khi các nhóm hát khác nhau (khác về lời nhưng nhạc vẫn đi theo một mẫu
giống nhau), rồi sau cùng lại giống nhau – cùng hát một câu. Nếu hát được
đúng, ta đã giúp tạo ra lòng tự tin, tính độc lập cho các em, không nghe theo,
không làm theo người hát bè khác. Khi đó, chắc chắn các em sẽ rất vui và còn
hãnh diện nữa…Ngoài ra vào cuối năm học, việc giới thiệu một hoặc 2 bài hát ở
chương trình tiếng Anh lớp 4 không những có thể giúp cho các em giải trí mà
còn gây được sự hứng thú, tò mò ham thích học hỏi môn học ở các em.
Như vậy, chúng ta biết rằng các phương thức để hỗ trợ cho bài học
tiếng Anh không những là qua chơi trò chơi, kể chuyện, đóng kịch, đi cắm trại…
mà còn qua các bài hát nhỏ nhỏ, vui vui nữa đó nhằm khuyến khích việc sử
dụng tiếng Anh một cách sáng tạo thiết thực. Sử dụng được càng nhiều tiếng
Anh, học hỏi thêm càng nhiều tiếng Anh càng tốt cho việc giao tiếp trong cuộc
sống đời thường và trong xã hội hiện đại ngày nay.
Sau đây là nội dung một số bài hát dành cho các em học sinh tiểu học mà
tôi tự soạn và áp dụng trong quá trình giảng dạy của mình.
* NỘI DUNG CÁC BÀI HÁT
1. Chủ điểm giao tiếp:
Bài 1: HELLO
Qua bài hát này học sinh sẽ thuộc được một số lời chào nhau khi gặp mặt
và khi tạm biệt. Bên cạnh đó các em cũng được nhắc lại câu hỏi thăm sức khỏe
người khác cũng như cách trả lời một cách lịch sự qua mẫu câu: “How are you?”
– I am fine. Thank you.
Bài 2: OUR NAMES
Bài hát giúp học sinh củng cố lại việc giới thiệu tên mình bằng hai cách:
“I am + tên” và “My name is + tên”. Đồng thời các em được nhắc lại câu hỏi
tên các bạn qua cấu trúc: “What is your name?”
2. Chủ điểm trường học:
Bài 3: MY FRIENDS
Bài hát nhắc học sinh nhớ lại những đại từ nhân xưng là ngôi thứ ba số
ít “he, she” và hình thái của động từ “to be” tương ứng.
Bài 4: MY SCHOOL
Học sinh giới thiệu về vị trí, đặc điểm của trường và lớp học của mình
sử dụng cách nói “This is ……… và That is ……… ”. Bài hát giúp học sinh
thuộc bài một cách dễ dàng , nhanh chóng, và nhớ bài học lâu hơn.
Bài 5: SCHOOL OBJECTS
Thông qua bài hát này, học sinh sẽ thuộc được rất nhiều đồ dùng học
tập ở trường một cách dễ dàng và thú vị như: book, ruler, eraser, pen, bag,
pencil…
3. Chủ điểm gia đình:
Bài 6: FAMILY MEMBERS
Bài hát lồng vào các từ chỉ các thành viên trong gia đình đồng thời giới
thiệu nghề nghiệp của họ.
Bài 7: AGES
Đây là bài hát có giai điệu dễ thương mà các em rất quen thuộc và
thích hát. Qua đó, củng cố lại cho các em cách hỏi và trả lời về tuổi bằng mẫu
câu: “How old are you? ” và “I am + tuổi.”
Bài 8: MY HOUSE
Bài hát giáo dục học sinh tình cảm gắn bó với ngôi nhà của mình đồng
thời củng cố kiến thức cho các em khi giới thiệu về nhà, các phòng và đặc điểm
của chúng.
4. Các bài hát thuộc chủ điểm khác: (Thế giới xung quanh em)
Bài 9: THE WEATHER
Mục đích của bài hát này là giúp học sinh ôn lại từ và cấu trúc câu đã
học về thời tiết.
Bài 10: OUR PETS
Qua bài hát ôn lại các từ chỉ tên các con thú cưng một âm tiết đã học
như: dog, cat, fish, bird. Qua đó kết hợp giáo dục cho các em ý thức yêu thương
và bảo vệ các loài động vật.
Bài 11: HOW MANY PETS
Nhằm củng cố lại cấu trúc “How many …… do you have?” và cách
trả lời số luợng con thú cưng. Giúp học sinh biết một số trường hợp nào dùng
danh từ số nhiều.
Bài 12: OUR TOYS
Mục tiêu là ôn lại cấu trúc và các từ một âm tiết về đồ chơi đã học. Đồng
thời giáo dục các em có ý thức gìn giữ đồ chơi của bản thân, của người khác và
biết chia sẻ đồ chơi với các bạn.
Bài 13: ZOO ANIMALS
Đây là một trong những bài hát thuộc chủ điểm thế giới xung quanh
em của chương trình tiếng Anh lớp 4. Giai điệu của bài hát rộn ràng, vui nhộn,
dễ hát giúp học sinh nhớ các từ chỉ các con vật ở sở thú và biết cách nói mình
thích hay không thích con vật gì. Đồng thời củng cố cho các em cách dùng thể
khẳng định, phủ định và thể nghi vấn của “Thì hiện tại đơn giản”.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN
Vào đầu năm học 2012 – 2013, tôi được phân công dạy môn tiếng Anh
khối 3 gồm 165 học sinh. Sau khi vào chương trình dạy hết 3 tuần, tôi nhận thấy
tình hình học sinh tôi có phần gặp nhiều khó khăn như tôi đã trình bày ở trên
(phần thực tiễn bộ môn). Và tôi đã tiến hành một cuộc điều tra nhỏ để thống kê
sở thích của học sinh đối với các môn học thì có kết quả như sau:
Subjects (Cácmôn) Like (Thích) Don/t like (Không thích)
Vietnamese (Tiếng Việt) 99 học sinh 66 học sinh
Maths (Toán) 93 học sinh 72 học sinh
English (Tiếng Anh) 65 học sinh 100 học sinh
Music (Hát nhạc) 120 học sinh 45 học sinh
Science (TNXH) 90 học sinh 75 học sinh
Arts (Mĩ thuật) 100 học sinh 65 học sinh
Qua việc áp dụng các bài hát ngắn tự soạn có lồng vào nội dung bài học
trong quá trình giảng dạy tiếng Anh của trường Tiểu học Minh Tân năm học
này, tôi nhận thấy có sự chuyển biến rõ rệt về thái độ học tập của học sinh trong
các tiết học tiếng Anh.
Gần đây, tôi đã thống kê lại sở thích của các em đối với riêng bộ môn
tiếng Anh và đã nhận được kết quả khả quan hơn. Đến nay hầu hết các em đều
phấn khởi ham thích học môn tiếng Anh, từ chỉ có 65 em thích học tiếng Anh
nay tăng lên tới 138 em và điều đó đã làm giảm được số lượng 100 em không
thích học tiếng Anh xuống chỉ còn lại 27 em. Đáng mừng hơn là các em hoàn
toàn khắc phục được những khó khăn trong việc đọc – nói tiếng Anh và từ đó
các em tích cực hơn trong các hoạt động tham gia vào bài học. Học sinh hăng
hái, hứng thú, sôi nổi hơn trong học tập, bài chuẩn bị ở nhà chu đáo hơn. Vì
thế, kết quả theo dõi chất lượng môn học tiếng Anh của học sinh vào cuối năm
cũng được nâng cao rõ rệt.
THỐNG KÊ KẾT QUẢ THEO DÕI CHẤT LƯỢNG
TIẾNG ANH CỦA HỌC SINH KHỐI 3
NĂM HỌC 2012-2013
Tháng Giỏi % Khá % TB % Yếu % Kém %
9 35 21,2 59 37,8 44 26,7 18 1,1 9 5,5
10 38 23,0 65 39,4 51 30,9 10 6,1 1 0,6
11 69 41,8 55 33,3 38 23.0 7 4,2 0 0
12 80 48,5 44 26,7 37 22,4 4 2,4 0 0
KT HKI 86 52,1 58 35,1 20 12.1 1 0.6 0 0
1 81 49,1 45 27,2 36 21,8 3 1,8 0 0
2 86 52.1 47 28,5 31 18,8 1 0.6 0 0
3 86 52,1 42 25,5 35 21,2 2 1,2 0 0
4 88 53,3 45 27.2 32 19,4 0 0 0 0
PHẦN III
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN
Nhìn vào kết quả khảo sát cuối tháng 4 của học sinh khối 3 đã phản ánh tỷ
lệ học sinh đạt điểm khá giỏi tăng lên nhanh chóng, tỷ lệ học sinh trung bình và
học sinh yếu giảm dần, góp phần nâng cao chất lượng môn tiếng Anh của
trường. Điều này chứng tỏ việc áp dụng sáng kiến “Phương pháp gây hứng thú
học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn ” đã phát huy tác
dụng tích cực. Nếu giáo viên chịu khó đầu tư tranh ảnh, thời gian và tâm huyết,
tôi khẳng định chắc chắn rằng trình độ của HS tiểu học của huyện nhà sẽ được
nâng cao rõ rệt góp phần giúp các em tự tin khi sử dụng tiếng Anh trong giao
tiếp thực tế.
Qua việc nghiên cứu và vận dụng đề tài, tôi đã rút ra được một số kinh
nghiệm sau:
- Để nâng cao chất lượng giảng dạy, giáo viên phải có tâm huyết với nghề,
có trách nhiệm với tiết dạy của mình, quan tâm đến các đối tượng học sinh và
chất lượng giảng dạy thì mới chọn được phương pháp linh hoạt theo hướng đổi
mới phù hợp với học sinh của mình.
- Chuẩn bị kế hoạch bài học chu đáo, chi tiết, tỉ mĩ. Tăng cường sử dụng đồ
dùng dạy học sẵn có hoặc tự làm phong phú, thiết thực, có hiệu quả.
- Sử dụng các bài hát ngắn tự soạn hoặc sưu tầm, hay tổ chức nhiều trò chơi
tăng cường vốn từ vựng và rèn luyện cấu trúc câu tạo cho học sinh ham thích
môn học. Hệ thống cho học sinh đầy đủ kiến thức trọng tâm đơn giản, dễ nhớ,
dễ sử dụng.
- Khuyến khích học sinh đổi sang tiếng Anh những điều các em nói bằng
tiếng Việt đồng thời sử dụng tiếng Anh thường xuyên hơn ở lớp, hay nhóm bạn
học tập ở nhà. Khen thưởng tuyên dương những em có năng khiếu, có tiến bộ và
có tham gia phát biểu. Ngoài ra, cần thường xuyên giúp đỡ động viên các em
còn yếu kém và kịp thời sửa lỗi ngoại ngữ của các em một cách nhẹ nhàng, để
các em không bị mặc cảm, xấu hổ, sợ sai dẫn đến việc ngại nói hoặc lười học.
II. KIẾN NGHỊ :
Hiện nay, cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học tiếng Anh cho học sinh
tiểu học ở một số trường tiểu học trên toàn huyện rất hạn chế. Ngay trường tôi,
vẫn rất thiếu một phòng dạy tiếng Anh có trang bị đầy đủ máy chiếu, màn hình
LCD loại lớn, máy tính xách tay kết nối Internet, thiếu rất nhiều tranh ảnh và tài
liệu tham khảo. Điều này cản trở không nhỏ tới việc thu hút , gây hứng thú cho
các em đối với bài học. Bản thân tôi không đủ sức để làm được, tôi cũng đã
mạnh dạn tham mưu với nhà trường nhưng vì điều kiện tài chính nhà trường hạn
hẹp nên hiện tại chưa thể đáp ứng được nhu cầu giảng dạy theo đường hướng
giao tiếp tiên tiến, không đủ nhiều điều kiện thuận lợi để tối ưu hóa sáng kiến
kinh nghiệm của tôi. Do đó, việc áp dụng sáng kiến của tôi gặp rất nhiều khó
khăn và chưa phát huy hết tác dụng của sáng kiến của tôi. Vì vậy tôi xin kiến
nghị Lãnh đạo cấp trên những việc như sau:
+ Tăng cường cơ sở vật chất : Đài, Ti vi, đầu Video, máy chiếu Projector,
phòng học tiếng anh…… nhất là cơ sở vật chất cho các trường đang găp khó
khăn để phục vụ công tác giảng dạy thiên về kỹ năng giao tiếp cho học sinh
tiểu học
+ Tham mưu UBND huyện hỗ trợ nguồn đầu tư đào tạo bồi dưỡng các giáo
viên dạy tiếng Anh tiểu học được tiếp cận trình độ chuẩn và trên chuẩn quốc
tế về năng lực ngôn ngữ và năng lực giảng dạy để đáp ứng ngày càng cao sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của huyện nhà trong tương lai.
+ Tham mưu UBND huyện về việc tạo điều kiện thuận lợi cho GV dạy tiếng
Anh tiểu học được tiếp cận các khóa đào tạo, buồi dưỡng năng lực ngôn ngữ,
năng lực giảng dạy trên các trang Website của Đại học Cambridge vì hiện tại
các giáo viên dạy tiếng Anh ở tiểu học không đủ khả năng tài chính để được
tiếp cận các các trang Web này.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để các GV dạy tiếng Anh tiểu học được tham gia
bồi dưỡng về công nghệ thông tin, cách thức khai thác các phần mềm và trang
website phục vụ dạy và học tiếng anh trên mạng.
Qua quá trình giảng dạy, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm nhỏ và
kết quả thu được rất đáng mừng. Nó cũng phần nào giúp cho học các học sinh
của tôi ngày càng yêu thích và gần gũi với môn học, say mê và học tốt môn
Tiếng Anh
Trên đây là những " Phương pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học
sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn " mà tôi đã mạnh dạng đưa ra. Thiết nghĩ,
đây cũng là một vấn đề rất được quan tâm trong dạy môn tiếng Anh tiểu học.
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy, cô để tôi có thể trau
dồi chuyên môn hơn trong quá trình giảng dạy.
TT Yên Lạc, ngày 20 tháng 4 năm 2013
Người viết sáng kiến kinh nghiệm
Hoàng Thị Nhung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Sách giáo viên tiếng Anh 3 của NXB giáo dục.
- Sách bồi dưỡng năng lực nghe nói cho học sinh lớp 3
- Đĩa tiếng Anh 3 của NXB giáo dục
- Đĩa bồi dưỡng năng lực nghe nói cho học sinh lớp 3
- Website TiếngAnh 123.com
- Website Oup.com.vn
- Và một số trang Web có các bài hát tiếng Anh dành cho trẻ em khác
SKKN: Phương pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn
Mục đích của đề tài nhằm nghiên cứu về thực trạng dạy ngoại ngữ cho học sinh tiểu học và việc học ngoại ngữ của học sinh tiểu học, hứng thú của các em đối với môn học, phương pháp học ngoại ngữ của các em. Qua đó tìm ra điểm mạnh điểm yếu trong phương pháp học của các em, cũng như trong phương pháp dạy của giáo viên , từ đó đề ra những giải pháp để nâng cao chất lượng môn ngoại ngữ ở bậc tiểu học. Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến “Phương pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn”.
Sơn Tuyền 1600 19 pdf
Báo lỗi
Trùng lắp nội dung
Văn hóa đồi trụy
Phản động
Bản quyền
File lỗi
Khác
Upload Tải xuốngđang nạp các trang xem trước
Không thể tạo bản xem trước, hãy bấm tải xuống
Tải xuống
TÀI LIỆU LIÊN QUAN
Sáng kiến kinh nghiệm: Gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn luyện từ và câu thông qua phương pháp trò chơi
30 158 3
SKKN: Phương pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh Tiểu học qua các bài hát ngắn
19 1544 76
Sáng kiến kinh nghiệm: Phương pháp gây hứng thú cho học sinh trong giờ học Tiếng Anh
14 206 6
SKKN: Gây hứng thú cho học sinh khi học môn Âm nhạc ở trường
8 580 27
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số biện pháp gây hứng thú học Tiếng Anh cho học sinh tiểu học
29 164 9
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Gây hứng thú cho học sinh lớp 2 học phân môn luyện từ và câu thông qua phương pháp trò chơi
30 21 1
Sáng kiến kinh nghiệm: Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8
31 228 23
SKKN: Một số biện pháp gây hứng thú học tiếng Anh cho học sinh tiểu học
29 181 10
Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phương pháp giới thiệu bài gây hứng thú cho học sinh
6 61 3
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm sử dụng phương pháp gây hứng thú trong dạy học lịch sử dân tộc cho học sinh lớp 12 Trung tâm GDTX&DN Tam Đảo
41 10 2
TÀI LIỆU XEM NHIỀU
Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh
13 29440 1392
Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”
3 18606 193
31 Câu hỏi ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học
25 16911 3471
Tiểu luận Tình huống xử lý sai phạm trong thanh toán công tác phí lưu động
20 15434 1385
Tiểu luận: Vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
16 13704 2179
100 câu hỏi trắc nghiệm Triết học Mác-Lênin kèm đáp án
14 13354 2426
Ebook Ôn luyện tiếng Anh 9 có đáp án: Phần 2 - Mai Lan Hương, Hà Thanh Uyên
37 12376 2740
Đề thi và Đáp án môn Tiếng Việt thực hành - ĐH SPKT TP.HCM
3 9647 183
Bảng biến đổi Laplace và biến đổi Z
1 9489 337
Mẫu đơn thông tin ứng viên ngân hàng VIB
8 9464 1735
TỪ KHÓA LIÊN QUAN
Sáng kiến kinh nghiệm
Phương pháp gây hứng thú cho học sinh
Đổi mới phương pháp dạy học
Kinh nghiệm giảng dạy học sinh
Sáng kiến kinh nghiệm môn Tiếng Anh
Sáng kiến kinh nghiệm tiểu học
Sáng kiến kinh nghiệm
Gây hứng thú cho học sinh
Hứng thú cho học sinh lớp 2
Môn Luyện từ và câu
Phương pháp trò chơi
Luyện từ và câu
Phương pháp dạy và học môn Tiếng Anh
Dạy học tích cực
Gây hứng thú cho học sinh khi học Âm nhạc
Giúp học sinh học tốt môn Âm nhạc
Đổi mới phương pháp giảng dạy môn Âm nhạc
Sáng kiến kinh nghiệm môn Âm nhạc
Sáng kiến kinh nghiệm THCS
Phương pháp học tập
Phương pháp dạy học
Kỹ năng dạy học
Gây hứng thú học Tiếng Anh
Sáng kiến kinh nghiệm môn Tiếng Việt
Quản lý giáo dục
Quản lý trường Tiểu học
Gây hứng thú cho học sinh thông qua trò chơi
Hứng thú học tập
Biện pháp gây hứng thú học tiếng Anh
Trường TH Lê Lợi
Cải tiến phương pháp dạy học
Sáng kiến kinh nghiệm Tiếng Anh
Phương pháp giới thiệu bài gây hứng thú
Kinh nghiệm dạy môn Tiếng Anh
Sáng kiến kinh nghiệm THPT
Sáng kiến kinh nghiệm môn Lịch sử 12
Lịch sử Việt Nam
Phương pháp gây hứng thú trong dạy học
Lịch sử dân tộc
Đổi mới phương pháp gây hứng thú học tập
Gây hứng thú trong giờ học Tiếng Anh
Phương pháp dạy học môn Tiếng Anh
Dạy học bằng tiếng Anh
Hóa hữu cơ
Dạy học hóa học phần hữu cơ
Hứng thú của học sinh trong học hóa bằng tiếng Anh
Tổ chức trò chơi học tập
Sáng kiến kinh nghiệm môn Toán học
Tổ chức trò chơi gây hứng thú học tập
Tổ chức trò chơi toán học
Tạo hứng thú học tập cho học sinh
Sáng kiến kinh nghiệm môn Toán
Sáng kiến kinh nghiệm lớp 2
Gây hứng thú học tập
Sáng kiến kinh nghiệm lớp tiểu học
Sáng kiến giảng dạy
Kinh nghiệm giảng dạy
Phương pháp giảng dạy
Sáng kiến kinh nghiệm môn Lịch sử lớp 5
Phương pháp dạy học môn Sử lớp 5
Tạo hứng thú học tập môn Sử
Dạy học môn Thể dục
Biện pháp nâng cao hứng thú học Thể dục
Quá trình dạy học
Phân môn Luyện từ
Môn Tiếng Việt
Phương pháp dạy
Phương pháp học
TÀI LIỆU MỚI ĐĂNG
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phân tích khả năng sinh lợi theo các kênh bán hàng tại Công Ty TNHH TM & DV Vân Hậu
127 51 1 28-02-2022
Bài giảng Cấu trúc dữ liệu và giải thuật: Chương 9
29 31 1 28-02-2022
Unsymmetrical zinc phthalocyanines containing thiophene and amine groups as donor for bulk heterojunction solar cells
10 15 1 28-02-2022
Giáo án môn Tiếng Anh lớp 5: Tuần 23 (Theo Công văn 2345 của Bộ GD&ĐT)
9 26 2 28-02-2022
Nghiên cứu đặc tính tia phun, tính năng kỹ thuật và phát thải của động cơ diesel khi sử dụng hỗn hợp nhiên liệu diesel - ethanol - biodiesel
7 30 1 28-02-2022
Gelation time characterization method for polyvinyl alcohol-based hydrogel
9 38 1 28-02-2022
To connect or not to connect: Visitor preferences for Wi-Fi and cellular network service at a national park
8 35 1 28-02-2022
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Khoa học: Xác định tốc độ truyền sóng trong địa chấn phản xạ
11 93 1 28-02-2022
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Các nhân tố tác động đến định hướng khách hàng của nhân viên phục vụ khách sạn – nhà hàng TPHCM
101 70 1 28-02-2022
Sáng kiến kinh nghiệm Mầm non: Một số kinh nghiệm trong việc sáng tạo đồ dùng đồ chơi cho trẻ mầm non
15 61 1 28-02-2022
Thực trạng vận dụng giá trị hợp lý trong công tác kế toán tại Việt Nam
7 34 1 28-02-2022
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Một số kinh nghiệm sử dụng Adobe Presenter trong thiết kế bài giảng e-learning môn Vật lí
39 54 2 28-02-2022
Mô hình vật lý kiểm nghiệm khả năng ứng dụng kết cấu tiêu sóng cho tường biển ở Nha Trang
8 31 3 28-02-2022
Luận án Tiến sĩ Kế toán: Định hướng xác lập và áp dụng khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở Việt Nam
152 20 1 28-02-2022
Sáng kiến kinh nghiệm THPT: Rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn cho học sinh trong dạy học chương Cảm ứng điện từ, Vật lí 11 THPT
71 32 2 28-02-2022
Developing E-learning application with Java web technologies
12 32 1 28-02-2022
Suppression of interfering ions by using ionic liquid and micelle moieties in spectrofluorimetric analysis of manganese
12 24 1 28-02-2022
Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Đặc điểm trường ca Hữu Thỉnh
114 27 1 28-02-2022
Luận án Tiến sĩ Luật học: Địa vị pháp lý của doanh nghiệp xã hội theo pháp luật Việt Nam
241 20 1 28-02-2022
Giáo trình Kỹ thuật nguội (Nghề Điện công nghiệp - Trình độ cao đẳng) - CĐ GTVT Trung ương I
54 20 1 28-02-2022
TÀI LIỆU HOT
Phân tích và làm rõ ý kiến sau: “Bài thơ Tự tình II vừa nói lên bi kịch duyên phận vừa cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương”
3 18606 193
Thiết kế kế hoạch bài học môn Toán theo định hướng phát triển năng lực học sinh
13 29440 1392
CẬP NHẬT KINH TẾ VĨ MÔ VIỆT NAM 6 tháng đầu năm 2020
3 1278 72
Sách trắng Doanh nghiệp Việt Nam năm 2020
580 3409 334
Việt Nam 2035 hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ
584 1761 67
BÀI GIẢNG DỰNG HÌNH SKETCHUP 2020 BIÊN SOẠN : GV.KTS PHAN THỨC
62 4058 1
GIÁO TRÌNH TIẾNG ANH ENG BREAKING
171 3636 600
Quản trị khủng hoảng trong quan hệ công chúng
2 1564 69
Báo cáo thực tập chuyên ngành: Nghiên cứu, thiết kế, mô phỏng robot công nghiệp
51 2129 132
Đề tài “ Cân đối ngân sách nhà nước- thực trạng và hướng hoàn thiện”
53 2992 162
TAILIEUXANH - MIỄN PHÍ HÀNG TRIỆU TÀI LIỆU Địa chỉ : Số 38 Trần Thái Tông - Cầu Giấy - Hà nội - Việt Nam Website : tailieuxanh.com Email : TailieuXANH.com là thư viện tài liệu trực tuyến, nơi chia sẽ trao đổi hàng triệu tài liệu như luận văn đồ án, sách, giáo trình, đề thi, truyện đọc.v.v.. Với kho tài liệu khủng lên đến hàng triệu tài liệu sẽ được miễn phí tới 99,99% cho các thành viên. Chúng tôi không chịu trách nhiệm liên quan đến các vấn đề bản quyền nội dung tài liệu được thành viên tự nguyện đăng tải lên và các cộng tác viên gửi về. Từ khóa tìm kiếm: THỊ TRƯỜNG NGÀNH HÀNG | Nông nghiệp, thực phẩm | Gạo | Rau hoa quả | Nông sản khác | Sữa và sản phẩm | Thịt và sản phẩm | Dầu thực vật | Thủy sản | Thức ăn chăn nuôi, vật tư nông nghiệp | CÔNG NGHIỆP | Dệt may | Dược phẩm, Thiết bị y tế | Máy móc, thiết bị, phụ tùng | Nhựa - Hóa chất | Phân bón | Sản phẩm gỗ, Hàng thủ công mỹ nghệ | Sắt, thép | Ô tô và linh kiện | Xăng dầu | DỊCH VỤ | Logistics | Tài chính-Ngân hàng | NGHIÊN CỨU THỊ TRƯỜNG | Hoa Kỳ | Nhật Bản | Trung Quốc | Hàn Quốc | Châu Âu | ASEAN | BẢN TIN | Bản tin Thị trường hàng ngày | Bản tin Thị trường và dự báo tháng | Bản tin Thị trường giá cả vật tư | luận văn | giáo trình | luận văn | tiến sĩ | Luận văn | thạc sĩ | kế toán | kiểm toán | quản trị kinh doanh | kinh tế tài chính | ngân hàng | ngân hàng luận văn | kế toán | luận văn kinh tế | công nghệ thông tin | lập trình | quản trị | mạng hệ điều hành | toán học | hóa học | vật lý | công nghệ | văn học | kỹ năng mềm | đề thi | ebook | ngoại ngữ | tiếng pháp | tiếng hàn | tiếng nhật | tiếng nga | tiếng anh | luận văn | ngân hàng | tiểu luận | tiểu thuyết | truyện đọc | ngôn tình | tài liệu | Văn mẫu |
Đã phát hiện trình chặn quảng cáo AdBlock
Trang web này phụ thuộc vào doanh thu từ số lần hiển thị quảng cáo để tồn tại. Vui lòng tắt trình chặn quảng cáo của bạn hoặc tạm dừng tính năng chặn quảng cáo cho trang web này.
Bấm nút này sau khi tắt/tạm dừng AdBlock
Top 30 Mẫu Đề Tài Sáng Kiến Kinh Nghiệm Môn Tiếng Anh Tiểu Học
Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Top 30 Mẫu Đề Tài Sáng Kiến Kinh Nghiệm Môn Tiếng Anh Tiểu Học
21/09/2021
Trần Khánh Ngân
4.7/5(3bình chọn )
Học sinh được tiếp xúc với tiếng Anh từ rất sớm và các thầy cô giáo cũng không ngừng đưa ra những sáng kiến kinh nghiệm đáp ứng nhu cầu học tiếng Anh của học sinh. Và nếu bạn vẫn chưa có ý tưởng nào cho đề tài sáng kiến kinh nghiệm tiếng Anh tiểu học, hãy cùng Best4Team tham khảo bài viết dưới đây nhé.
Các mẫu sáng kiến kinh nghiệm tiếng anh tiểu học
[NEW]Đề tài: SKKN ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy tiếng anh tiểu học