Cách tiếp cận trong nghiên cứu khoa học là gì năm 2024

Để triển khai nghiên cứu đề tài về quản lý giáo dục, có thể chọn một trong 4 cách tiếp cận: tiếp cận chức năng, tiếp cận theo đối tượng quản lý, tiếp cận theo lý thuyết quản lý và kết hợp các tiếp cận trên.

Tiếp cận theo chức năng là tiếp cận đặc trưng cho quản lý. Nhưng không nên tùy tiện áp dụng tiếp cận này. Tiếp cận theo đối tượng quản lý giúp “mổ sẻ” sâu vấn đề để từ đó tìm cách quản lý phù hợp. Tiếp cận theo lý thuyết quản lý giúp NCS vận dụng thành tựu quản lý hiện đại vào giáo dục. Cuối cùng kết hợp các tiếp cận trên giúp NCS triển khai nghiên cứu linh hoạt.

Việc chọn tiếp cận nào tùy thuộc trình độ phương pháp luận của NCS, trình độ hiểu biết các khoa học liên quan. Nhưng điều này được quyết định bởi tính chất và đặc điểm đề tài nghiên cứu.

Trong việc triển khai nghiên cứu luận án quản lý giáo dục, việc chọn cách tiếp cận nghiên cứu đề tài là một việc quan trọng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng luận án. Đây là nhân tố có tính chất tiền đề tạo nên thành công của luận án.

Thực tế chứng tỏ không ít nghiên cứu sinh chưa đầu tư thỏa đáng vào việc này. Đây là lý do tác giả bài báo này muốn trao đổi, chia sẻ với bạn đọc, trước hết là NCS về quản lý giáo dục góp phần giải quyết hạn chế này.

1. Thuật ngữ “tiếp cận” trong Khoa học xã hội thường hiểu một cách đơn giản là sự tìm hiểu, nghiên cứu, xem xét và giải quyết vấn đề về lý luận hoặc thực tiễn đặt ra cho người nghiên cứu (và cả người chỉ đạo thực tiễn nữa). Nhưng cần hiểu “tiếp cận” thuộc phạm trù phương pháp theo nghĩa rộng, nghĩa là vấn đề được xem xét và giải quyết ở tất cả các cấp độ từ phương pháp biện chứng đến kỹ thuật cụ thể trong mối tương quan tổng hòa nhằm giải quyết vấn đề đặt ra.

Điều khẳng định là trước khi bắt tay giải quyết một vấn đề nào đó, chủ thể phải chọn cách tiếp cận phù hợp. Không có “tiếp cận” thì không khác gì người đi đường không có phương hướng, bởi nó trang bị cho họ những hiểu biết mang tầm thế giới quan (quyết định cách tiếp cận tổng quát các vấn đề của hiện thực giáo dục nói chung, quản lý giáo dục nói riêng) và những quan điểm phương pháp luận (hướng vào quá trình nhận thức và cải tạo thực tiễn) chung, bao quát chi phối phương pháp giáo dục và quản lý giáo dục cụ thể. Đúng như V.I. Lênin đã nói: "Người nào bắt tay vào giải quyết các vấn đề riêng, trước khi giải quyết các vấn đề chung, thì người đó trong mỗi bước đi sẽ không tránh khỏi "vấp phải" những vấn đề chung đó một cách không tự giác. Mù quáng vấp phải những vấn đề chung đó trong trường hợp riêng thì có nghĩa là đưa chính sách của mình đến chỗ có những sự dao động tồi tệ nhất mà mất hẳn tính nguyên tắc" .

2. Trong quản lý giáo dục có thể điểm qua một số tiếp cận sau đây:

- Tiếp cận theo chức năng quản lý (lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra)

- Tiếp cận theo đối tượng quản lý (chính xác là Tiếp cận hướng vào đối tượng – Object-oriented)

- Tiếp cận theo lý thuyết quản lý (ví dụ Tiếp cận theo “Quản lý nguồn nhân lực”, Tiếp cận “Quản lý dựa vào nhà trường”, Tiếp cận “Quản lý sự thay đổi”, Tiếp cận “Quản lý chất lượng đồng bộ-TQM”, v.v… )

- Kết hợp các tiếp cận trên

3. Vì tầm quan trọng về mặt kỹ thuật, xin đi sâu vào Tiếp cận theo đối tượng quản lý, Tiếp cận theo lý thuyết quản lý và kết hợp các tiếp cận.

3.1. Trong quản lý giáo dục, Tiếp cận theo đối tượng được sử dụng khá nhiều. Nhưng trước hết xin bạn đọc chia sẻ với chúng tôi mệnh đề có tính chất tiền đề sau đây: “Muốn quản lý A phải hiểu A”. Mệnh đề này là sự khái quát Tiếp cận theo đối tượng.

Chẳng hạn quản lý đào tạo tại trường cao đẳng theo quá trình (đầu vào, quá trình và đầu ra): quản lý đầu vào, quản lý quá trình, quản lý đầu ra tức là quản lý theo đối tượng, nói chính xác là quản lý theo diễn tiến của đối tượng quản lý (đối tượng quản lý ở đây là quá trình đào tạo). Như vậy là diễn tiến của đối tượng quản lý như thế nào thì quản lý phải theo diễn tiến này nhằm đạt mục tiêu đào tạo cũng tức là mục tiêu quản lý. Cách tiếp cận này ta gọi là tiếp cận theo đối tượng.

Để bạn đọc hiểu rõ hơn xin trình bày về mặt kỹ thuật cách tiếp cận này qua một ví dụ minh họa cụ thể.

3.1.1. Đề tài “Quản lý đào tạo tại trường cao đẳng x theo tiếp cận CIPO”. Với tên đề tài như vậy, ta phải hiểu cụm từ “theo tiếp cận CIPO” “ăn theo” hoạt động đào tạo chứ không phải theo quản lý. Như vậy “đào tạo tại trường cao đẳng x theo tiếp cận CIPO” là vấn đề của Giáo dục học, chính là A (mệnh đề trên), đối tượng của quản lý. Ta hãy xem xét cụ thể đối tượng này trước khi đi vào quản lý.

CIPO là mô hình do UNESCO đề xuất, viết tắt của 4 từ tiếng Anh bao gồm:

C – Context (bối cảnh)

I – Input (đầu vào)

P – Process (quá trình)

O – Output và Outcome (đầu ra và kết quả đầu ra)

Trong đào tạo, các chữ cái trên được giải thích cụ thể như sau:

C: Bối cảnh diễn ra đào tạo. Cần nêu bối cảnh thế giới, trong nước và ngành giáo dục. Tuy nhiên, nói đến bối cảnh thì có vô vàn những điều cần nói. Vấn đề ở đây là chỉ nói đến bối cảnh ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến đào tạo của nhà trường. Chẳng hạn trong đề tài này có thể nói bối cảnh thế giới như: các nước đều coi cạnh tranh “chất xám”, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố hàng đầu; cuộc cách mạng 4.0 đang diễn ra ở nhiều nước và có xu thế lan sang các nước đang phát triển, v.v…; bối cảnh trong nước và ngành giáo dục có thể nói: nền kinh tế thị trường , hội nhập và mở rộng giao lưu đang phát triển, nước ta là thành viên WTO đã và đang tham gia nhiều hiệp định đòi hỏi nhân lực chất lượng cao, ngành giáo dục đang chỉ đạo đổi mới giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết 29 của Đảng, tình hình kinh tế- xã hội địa phương nơi trường đóng, sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với nhà trường, v.v…

I: Đầu vào ở đây là đầu vào của quá trình đào tạo. Có thể kể như: chất lượng chương trình đào tạo, trình độ đội ngũ cán bộ giáo viên, cơ sở vật chất, ngân sách dành cho trường, kể cả trình độ quản lý nữa và nhất là trình độ người học trước khi tham gia khóa đào tạo, v.v…

P: Quá trình đào tạo là quá trình diễn ra hoạt động đào tạo của người học và người dạy, của các nhân viên và cán bộ quản lý nhà trường. Có thể kể như: việc soạn giảng, sinh hoạt tổ chuyên môn, việc đổi mới phương pháp dạy và học, việc kiểm tra, thi, kiểm tra chất lượng đào tạo, áp dụng kinh nghiệm tiên tiến trong và ngoài nước trong đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn của Giảng viên, quản lý hoạt động của người dạy và người học, v.v…

O: Đầu ra và kết quả đầu ra. Một số người chỉ quan niệm O là chỉ đầu ra. Thực ra đầu ra cũng quan trọng, song kết quả đầu ra (Outcome) còn quan trọng hơn bởi nó chỉ hiệu suất đào tạo (bao nhiêu Học sinh có việc làm sau tốt nghiệp (Output) so với số Học sinh vào đầu khóa). Nhưng, nên nhớ O diễn ra trong suốt quá trình đào tạo, không phải chỉ là kết quả cuối cùng.

Thực ra CIPO là mô hình đề cập đến chất lượng đào tạo, là vấn đề của Giáo dục học, không phải là vấn đề quản lý.

Như vậy ta đã hiểu A, bây giờ là quản lý A như mệnh đề trên. Quản lý theo đối tượng ở đây là A diễn tiến như thế nào thì phải quản lý theo diễn tiến đó để đạt mục tiêu mong muốn. Muốn vậy phải tác động vào từng thành tố C, I, P, O. Nhưng trước hết phải khẳng định: không thể quản lý C (bối cảnh) vì nó ngoài tầm tay của nhà trường. Song có thể điều tiết ảnh hưởng của bối cảnh thông qua hoạt động của chủ thể quản lý và các thành viên khác trong nhà trường. Ví dụ có thể lợi dụng ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường đến hoạt động đào tạo của nhà trường.

3.1.2. Để quản lý đào tạo theo CIPO, tiếp cận quản lý cần sử dụng là Tiếp cận cùng tham gia. Có 3 chủ thể tham gia quản lý đào tạo theo chức năng riêng dưới sự chủ đạo của chủ thể chính (Hiệu trưởng, hoặc Tổ trưởng chuyên môn tùy theo việc chọn của người nghiên cứu). Ngoài Hiệu trưởng còn có Giảng viên và Học viên (Giảng viên vừa giảng dạy vừa tổ chức, chỉ đạo Học viên hoạt động, Học viên tự quản lý hoạt động học của mình). Cả 3 chủ thể này đều tham gia vào từng thành tố C, I, P, O trong quá trình đào tạo.

Ta có ma trận dưới đây mô tả tiếp cận này.

Các thành tố của CIPO

Hoạt động

của Hiệu trưởng

Hoạt động của Giảng viên

Hoạt động của Học viên

Mục tiêu đào tạo

C

?

?

?

?

I

?

?

?

P

?

?

?

O

?

?

?

Ma trận quản lý đào tạo theo Tiếp cận cùng tham gia

Bây giờ người nghiên cứu phải bỏ công sức và trí tuệ để xác định hoạt động của từng chủ thể vào ô trống trong ma trận (ô có dấu hỏi). Nhưng phải theo nguyên tắc:

-Hoạt động của các chủ thể phù hợp với từng thành tố C, I, P, O

-Trong từng thành tố, hoạt động của Hiệu trưởng mang tính chỉ đạo chung đối với Giảng viên và Học viên theo cơ chế: Hiệu trưởng quản lý, chỉ đạo trực tiếp Giảng viên; quản lý, chỉ đạo gián tiếp Học viên thông qua Giảng viên; Giảng viên vừa làm nhiệm vụ giảng dạy, vừa tổ chức, chỉ đạo Học viên hoạt động; cuối cùng Học viên tự quản lý mình.

Trên đây chúng tôi đã trình bày một ví dụ thể hiện tiếp cận quản lý hướng vào đối tượng quản lý, tức là diễn tiến của đối tượng quản lý như thế nào thì quản lý theo diễn tiến đó nhằm đạt mục tiêu quản lý đặt ra. Như mục 2 đã chỉ ra là Tiếp cận quản lý theo đối tượng, một trong những tiếp cận quản lý có thể sử dụng khi nghiên cứu đề tài quản lý giáo dục.

3.2. Tiếp cận theo lý thuyết/mô hình quản lý. Như ta biết quản lý từ những thập kỷ gần đây các nhà khoa học đã gặt hái được nhiều thành tựu về lý luận cũng như thực tiễn về quản lý nói chung, quản lý giáo dục nói riêng. Trong xu hướng quản lý hiện đại hay quản lý theo Lý thuyết hiện đại xuất hiện (kể cả kỹ thuật quản lý) có thể kể: Quản lý theo mục tiêu MBO, Quản lý nguồn nhân lực, Quản lý đảm bảo chất lượng (như Quản lý chất lượng đồng bộ TQM, v.v… ), Quản lý sự thay đổi, Quản lý theo tình huống trong giáo dục, Quản lý dựa vào nhà trường SBM, v.v…

3.2.1. Bây giờ ta hãy đi sâu vào một trong số đó: Quản lý chất lượng đồng bộ - TQM (chữ viết tắt của tiếng Anh Total Quality Management).

Tinh thần cơ bản của TQM là:

-Bất kỳ một tổ chức xã hội nào, đã làm việc/lao động đều phải có sản phẩm (vật chất hoặc phi vật chất)

-Sản phẩm đó là công sức chung của tất cả các bộ phận, tất cả thành viên trong tổ chức và sản phẩm đó phải bảo đảm chất lượng. Chất lượng được định nghĩa vắn tắt là sự hài lòng của khách hàng.

-Trong tổ chức, mọi bộ phận, mọi thành viên đều tham gia vào việc bảo đảm chất lượng phần công việc của mình phụ trách. Các chất lượng bộ phận này góp thành chất lượng chung.

-Khách hàng (bên trong hoặc bên ngoài tổ chức) tiêu thụ sản phẩm phải là sản phẩm có chất lượng.

Để dễ hình dung, ta giả định một hãng sản xuất điện thoại bán ra thị trường. Có tất cả 7 khâu sau (giả định):

Cách tiếp cận trong nghiên cứu khoa học là gì năm 2024

Trong đó:

Khâu 1: khảo sát nhu cầu khách hàng (khách hàng bên ngoài tổ chức/hãng, người tiêu thụ sản phẩm cuối cùng)

Khâu 2: thiết kế mẫu

Khâu 3: sản xuất thử

Khâu 4: sản xuất hàng loạt

Khâu 5: marketing

Khâu 6: phân phối/bán sản phẩm

Khâu 7: chăm sóc khách hàng

Chữ viết tắt SP: là sản phẩm

Chữ viết tắt CL: là chất lượng sản phẩm

Mỗi khâu trong 7 khâu trên phải có sản phẩm (SP) riêng và sản phẩm đó phải có chất lượng (CL). Trong tổ chức (hãng sản xuất) theo tinh thần TQM, khâu sau là khách hàng (bên trong) của khâu trước, nghĩa là sản phẩm của khâu trước phải có chất lượng thì khách hàng (khâu sau) mới tiếp nhận. Trong sơ đồ trên, sản phẩm khâu 1 (SP1) phải có chất lượng (CL1) thì sản phẩm này mới được khâu 2 (là khách hàng của khâu 1: khách hàng bên trong hãng) tiếp nhận. Đến lượt mình, khâu 2 phải có sản phẩm (SP2) và sản phẩm này phải có chất lượng (CL2). Rồi sản phẩm này được khâu 3 (khách hàng của khâu 2) tiếp nhận. Cứ như thế cho đến khâu cuối cùng. Do đó triết lý chung của TQM: làm tốt ngay từ đầu.

Như vậy là chất lượng của sản phẩm chung là sự đóng góp của tất cả các khâu trong hãng/tổ chức

Theo trình bày trên đây, tinh thần cốt lõi của TQM là:

- Mọi bộ phận/mọi người đều tham gia làm sản phẩm chung của tổ chức/hãng

- Theo chức trách riêng, mỗi bộ phận/mỗi người trong tổ chức/hãng đều phải có sản phẩm và sản phẩm đó phải có chất lượng

- Triết lý hướng vào khách hàng (bên trong và bên ngoài tổ chức) luôn luôn được coi trọng; đó cũng là lợi ích của khách hàng và của tổ chức/hãng

Tinh thần cốt lõi này nếu được vận dụng trong giáo dục và đào tạo thì có thể coi là cuộc cách mạng trong quản lý.

3.2.2. Bây giờ ta hãy dịch chuyển tinh thần trên vào trong chẳng hạn quản lý dạy học ở nhà trường.

Tham gia vào dạy học ở nhà trường có 4 chủ thể: Hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên môn, Giáo viên và Học sinh. Theo chức năng, cơ chế quản lý diễn ra như sau:

Hiệu trưởng: chỉ đạo Tổ trưởng chuyên môn quản lý dạy và học của Giáo viên và Học sinh,

Tổ trưởng chuyên môn: tiếp nhận sự chỉ đạo của Hiệu trưởng, cụ thể hóa trong tổ mình và chỉ đạo Giáo viên, Học sinh dạy và học

Giáo viên: vừa tiếp nhận sự chỉ đạo của Hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên môn vừa giảng dạy, vừa tổ chức quản lý Học sinh hoạt động

Học sinh: hoạt động học dưới sự chỉ đạo của Giáo viên

Theo tinh thần TQM, dạy học diễn ra theo 2 hệ: Hệ quản lý và Hệ dạy học. Ta hãy xét trong từng hệ theo TQM.

Trong Hệ quản lý, Hiệu trưởng hoạt động theo chức trách của mình tức là quản lý dạy học và sản phẩm của ông ta (SPHT) là những quyết định về dạy học, sản phẩm này phải theo tiêu chuẩn chất lượng (TCHT).

Sản phẩm này được “cung ứng” cho “khách hàng” là Tổ trưởng chuyên môn. Tổ trưởng chuyên môn hoạt động theo sự chỉ đạo của Hiệu trưởng và ông ta cũng có sản phẩm (SPT) - quyết định dạy và học – và sản phẩm này cũng phải có chất lượng (CLT).

Có thể xem Hệ quản lý “cung ứng” sản phẩm (quyết định quản lý) cho Hệ dạy học. Trong trường hợp này Hệ dạy học là “khách hàng”. Hệ dạy học bao gồm hoạt động của Giáo viên và Học sinh. Hai hoạt động này đều tiếp nhận sản phẩm của Hệ quản lý (mũi tên 1 và 2, mũi tên 1 liền nét chỉ sự “cung ứng”/chỉ đạo trực tiếp, mũi tên 2 đứt đoạn chỉ sự “cung ứng”/chỉ đạo gián tiếp).

Hệ dạy học gồm 2 chủ thể: Giáo viên và Học sinh. Sơ đồ cho thấy cả 2 chủ thể này đều hoạt động theo chức trách (Giáo viên dạy, Học sinh học) và đều có sản phẩm (sản phẩm của Giáo viên là bài dạy (SPG), của Học sinh là bài học (SPH)). Quan hệ giữa 2 chủ thể này theo TQM như đã chỉ ra trong sơ đồ.

Toàn bộ hoạt động trên đây của hệ thống hướng vào chất lượng dạy học.

Nếu dạy học được quản lý như tinh thần TQM ta thấy mọi thành viên trong nhà trường từ ông Hiệu trưởng đến Học sinh đều phải có trách nhiệm với chất lượng dạy học. Điều rõ ràng là hoạt động của từng thành viên đều có sản phẩm và sản phẩm đó phải có chất lượng theo tiêu chí phù hợp. Tinh thần đồng trách nhiệm thể hiện rất rõ trong nhà trường.

Đương nhiên sản phẩm chung phải có chuẩn xác định chất lượng. Đó là chất lượng dạy học (ví dụ dạy học môn Toán, môn Lịch sử, v.v..

Cách tiếp cận trong nghiên cứu khoa học là gì năm 2024

Sơ đồ Quản lý dạy học theo TQM

Trên đây là một số đề xuất mang tính sơ bộ để thực hiện TQM trong nhà trường. Từ đây chúng tôi mong muốn bạn đọc chia sẻ 3 quan niệm:

-Chất lượng sản phẩm quan trọng nhất (con người được đào tạo theo yêu cầu xã hội) chỉ có được khi tất cả các chủ thể hoạt động trong trường đều có sản phẩm và sản phẩm phải có chất lượng để góp vào chất lượng chung của nhà trường.

-Nếu nhìn qua thì thấy thực hiện TQM có vẻ rất vất vả. Đúng như vậy. Nhưng xin bạn đọc nhớ cho là giáo dục có đặc điểm quan trọng là tính lặp lại. Có phải năm học sau mọi hoạt động lặp lại năm học trước? Vì thế nếu chúng ta chịu vất vả trong 2, 3 năm đầu làm theo TQM để thành nếp và khi đã quen nếp rồi thì các năm sau lại nhàn nhã và lúc này chỉ nghĩ đến cải tiến sao cho việc thực hiện TQM ngày một tốt hơn (đồng nghĩa với nâng cao chất lượng đào tạo Học sinh).

-Có quan niệm cho rằng TQM chỉ áp dụng cho xây dựng tổ chức (?). Đây là quan niệm chật hẹp, TQM còn áp dụng vào bất kỳ hoạt động giáo dục nào . Bởi đã hoạt động phải có sản phẩm (vật chất hay phi vật chất) và sản phẩm này phải được xem xét về phương diện chất lượng. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu (và cả trong nước ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội) thì vấn đề chất lượng càng trở thành nhân tố sống còn đối với sự phát triển của đời sống con người.

Ba quan niệm trên là cơ sở để tin tưởng TQM sẽ trở thành hiện thực trong nhà trường nói riêng, trong lãnh đạo và quản lý ngành giáo dục nói chung, bởi chất lượng giáo dục đáp ứng yêu cầu xã hội chỉ có được khi có sự chung tay của toàn ngành từ các cấp quản lý đến tận nhà trường.

Xin bạn đọc đừng cầu toàn. Chặng đường dài của thành công bao giờ cũng có bước đầu tiên. Mới đầu TQM chỉ diễn ra ở một bộ phận, một việc làm nhỏ nhưng thành công của nó (dù nhỏ) sẽ là “cú hích” lan rộng những bộ phận khác và trở thành phong trào sâu rộng trong toàn ngành. Phần thưởng xứng đáng sẽ dành cho những người dám nghĩ dám làm.

3.3. Về việc kết hợp các tiếp cận trên (cách thứ 4), nhiều người viết thế này: “Kết hợp tiếp cận theo chức năng với tiếp cận theo năng lực” hoặc “tiếp cận theo CIPO kết hợp tiếp cận theo mục tiêu” hoặc v.v… Nói như vậy là không chuẩn, nếu không muốn nói là sai về logic. Vì sao?

Nếu suy nghĩ một chút ta thấy cách biểu đạt trên chứa 2 tiếp cận thuộc hai phạm trù khác nhau: một thuộc quản lý, một thuộc lý luận dạy học. Muốn kết hợp cái này với cái kia thì chúng phải thuộc cùng phạm trù.

Như trên đã nêu mệnh đề: “Muốn quản lý A phải hiểu A”, có thể diễn tả khái quát thành sơ đồ:

Cách tiếp cận trong nghiên cứu khoa học là gì năm 2024

Như vậy trên sơ đồ cần phân biệt:

- Đối tượng bị quản lý (A) là vấn đề thuộc phạm trù giáo dục (hay Giáo dục học)

- Tiếp cận quản lý là vấn đề thuộc phạm trù quản lý (hay của Khoa học quản lý)

Vấn đề của Giáo dục học có thể có những lý thuyết riêng hoặc khía cạnh riêng (ví dụ khía cạnh Giáo dục học như trong dạy học (dạy học theo Thuyết kiến tạo, thuyết Trải nghiệm, …), khía cạnh Tâm lý học ví dụ như trong phát triển năng lực, khía cạnh Xã hội học ví dụ trong bồi dưỡng năng lực hợp tác, kỹ năng sống, v.v… )

Vấn đề của quản lý ta thường gập ví dụ quản lý theo chức năng, quản lý theo lý thuyết quản lý (đã trình bày ở trên).

Đến đây cần rạch ròi trong tư duy của người nghiên cứu: Muốn kết hợp cái nọ với cái kia thì chúng phải thuộc cùng một phạm trù. Nhưng lưu ý là trong những tiếp cận kết hợp với nhau có một tiếp cận đóng vai trò chủ đạo, các tiếp cận còn lại chỉ đóng vai trò bổ sung thêm cho tiếp cận chủ đạo.

Kết luận

Chắc bạn đọc đồng ý với chúng tôi rằng không phải tùy tiện chọn bất kỳ tiếp cận nào để triển khai luận án, mà cần phải cân nhắc để chọn tiếp cận phù hợp bởi việc này quyết định thành công và chất lượng luận án.

Phải căn cứ tính chất, đặc điểm đề tài để chọn tiếp cận phù hợp. Điều này phụ thuộc trình độ hiểu biết của NCS về nhiều lĩnh vực: Giáo dục học, Tâm lý học, Xã hội học, Khoa học giáo dục, v.v… Không đủ trình độ hiểu biết về các khoa học liên quan NCS sẽ vừa rất khó tìm cách tiếp cận phù hợp vừa “mơ màng” triển khai nội dung luận án từ khâu đầu đến khâu kết thúc.

Những tiếp cận kèm theo các ví dụ nêu trên chỉ để bạn đọc tham khảo. Trong thực tế phức tạp và phong phú hơn nhiều.

Hy vọng bài báo này góp được phần nào cho bạn đọc.

Tài liệu tham khảo

Trần Kiểm (2013): Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục. In lần thứ bảy. Nxb. Đại học Sư phạm

Trần Kiểm (2016): Những vấn đề cơ bản của Khoa học quản lý giáo dục. In lần thứ tám. Nxb. Đại học Sư phạm

Trần Kiểm (2017): Quản lý và lãnh đạo nhà trường hiệu quả (tiếp cận năng lực). Nxb. đại học Sư phạm

John S. Oakland: Quản lý chất lượng đồng bộ. Nxb. Thống kê, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 1994

SEAMEO (1999): Quality Assurance for Higher Education in Asia and the Pacific. Bankok, SEAMEO Regional Centre for Higher Eduacational and Development

Võ Ngọc Vĩnh: “Quản lý chất lượng dạy học ở trường trung học phổ thông theo tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể” (Luận án tiến sỹ) Đại học quốc gia Hà Nội, 2013


V.I. Lênin: Toàn tập - T.5. NXB Sự thật, Hà Nội, trang 368.

Ở Việt Nam đã có NCS làm luận án tiến sỹ và đã bảo về thành công liên quan đến tiếp cận này (Chẳng hạn Võ Ngọc Vĩnh: “Quản lý chất lượng dạy học ở trường trung học phổ thông theo tiếp cận quản lý chất lượng tổng thể” (Luận án tiến sỹ) Đại học quốc gia Hà Nội, 2013

Phương pháp tiếp cận khoa học là gì?

Tiếp cận khoa học nhằm khám phá các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội nhằm tìm ra các giải pháp thích hợp để phục vụ quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế xã hội.

Phương pháp tiếp cận nghiên cứu là gì?

Phương pháp tiếp cận quy trình nhìn vào đo lường hiệu suất và đánh giá như một khía cạnh của hiệu quả, đặc biệt là liên quan đến cách đầu vào được chuyển đổi thành đầu ra. Phương pháp này giúp chuyển đổi sự tập trung từ việc tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn, văn bản thành việc nắm bắt tư tưởng của sự cải tiến.

Tiếp cận hệ thống trong nghiên cứu khoa học là gì?

Tiếp cận hệ thống nhấn mạnh vào việc xác định và mô tả mối liên kết giữa các yếu tố cấu tạo nên hệ thống và tương tác giữa chúng. tố khác, từ đó dẫn đến thay đổi thành tố thứ ba... Bất cứ một tương tác nào trong hệ thống cũng vừa có tính nguyên nhân, vừa có tính điều khiển.

Thiết kế nghiên cứu là gì?

Thiết kế nghiên cứu là cấu trúc tổng thể nhằm tích hợp các thành phần của nghiên cứu, để đảm bảo rằng những bằng chứng thu thập được giúp giải quyết các vấn đề nghiên cứu một cách rõ ràng nhất.