Uống thuốc quá liều có chết được không

Uống thuốc quá liều có chết được không

Opiod là loại thuốc gây tử vong hàng đầu.

Một báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) cho thấy: Có 41.340 ca tử vong do dùng thuốc quá liều trong năm 2011 và con số này tăng lên 63.632 trong năm 2016.

Mặc dù oxycodone (một loại opioid) là loại thuốc được trích dẫn nhiều nhất trong hồ sơ tử vong do dùng quá liều vào năm 2011, nhưng heroin lại chiếm vị trí đầu tiên từ năm 2012 đến 2015.

Câu chuyện xung quanh fentanyl có thể còn rắc rối hơn nữa. Tỷ lệ tử vong do quá liều liên quan đến fentanyl hoặc dẫn chất của nó đã tăng gấp đôi qua mỗi năm, cuối cùng nó trở thành loại thuốc được nhắc đến nhiều nhất. Trong năm 2016, 29% các trường hợp tử vong do quá liều đều liên quan đến fentanyl.

Ngoài ra, các thuốc chứa cocaine là loại thuốc đứng thứ 2 hoặc thứ 3 gây tử vong do quá liều được ghi nhận trong toàn bộ thời gian nghiên cứu.

Danh sách 10 loại thuốc được nhắc đến nhiều nhất, theo CDC Mỹ, bao gồm các opioid (methadone, morphine và hydrocodone); các benzos (alprazolam) và diazepam; chất kích thích thần kinh (methamphetamine)...

Trong tất cả 10 loại thuốc, chỉ có methadone có liên quan đến tỷ lệ tử vong do quá liều có tỉ lệ giảm dần. Dù thứ hạng của các thuốc thay đổi từ năm này sang năm khác, nhưng 10 loại thuốc hàng đầu dẫn đến tử vong do dùng quá liều vẫn không thay đổi trong suốt những năm qua.

Uống thuốc quá liều có chết được không

Tử vong do quá liều thuốc fetanyl đã tăng gấp đôi qua mỗi năm.

Ngoài 10 loại thuốc hàng đầu liên quan đến tử vong do quá liều, các loại thuốc giữ thứ hạng 11 đến 15 trong suốt 6 năm nghiên cứu bao gồm: Diphenhydramine, acetaminophen, citalopram, carisoprodol, oxymorphone, tramadol, amitriptyline, clonaz.

Hồi chuông cảnh báo việc sử dụng quá liều thuốc

Theo Trung tâm thống kê y tế quốc gia Hoa Kỳ (NCHS), các loại thuốc đặc biệt thường được sử dụng có thể gây ra tử vong nếu dùng quá liều và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc báo cáo đầy đủ và chính xác các trường hợp tử vong.

Một báo cáo của NCHS cho thấy tỷ lệ tử vong do dùng thuốc quá liều ở Mỹ trong vòng 17 năm đã tăng đáng kể, từ 6,1/100.000 dân đến 19,8/100.000.

Lưu ý từ các nhà điều tra cho biết, mặc dù một số nghiên cứu trước đây về quá liều thuốc sử dụng thông tin từ Hệ thống thống kê sinh - tử quốc gia (NVSS-M), nhưng các dữ liệu này được mã hóa bằng hệ thống Phân loại quốc tế về bệnh tật lần thứ mười (ICD-10). Các mã ICD-10 này tập trung vào các nhóm thuốc hơn là các loại thuốc riêng lẻ.

Để trả lời cho vấn đề này, NCHS và Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã hợp tác phát triển các phương pháp cho phép tìm kiếm các ca tử vong được ghi nhận, nhằm xác định các loại thuốc cụ thể và các chất khác nhau có nguy cơ gây tử vong nếu dùng quá liều. Đồng thời tìm kiếm các thuật ngữ theo ngữ cảnh để xác định sự liên quan của thuốc hoặc chế phẩm dẫn đến cái chết.


Ds. Nguyễn Mạnh Hùng

Suckhoedoisong.vn – Quá liều thuốc ở trẻ là tình trạng rất dễ xảy ra, do vô tình hay cố ý của người lớn, khi dùng các thuốc trị bệnh thông thường… có thể dẫn đến ngộ độc thuốc, gây hậu quả nghiêm trọng, nhất là đối với trẻ nhỏ.

Thuốc thông thường hay bị dùng quá liều

Paracetamol là thuốc hay bị lạm dụng nhất. Viêm đường hô hấp trên với các triệu chứng ho, sốt… là biểu hiện rất thường gặp ở trẻ và người lớn (cha, mẹ) lại hay tự làm bác sĩ mua thuốc về điều trị cho con là phổ biến. Paracetamol là thuốc được dùng để hạ sốt, giảm đau được sản xuất dưới dạng bột pha uống dùng cho trẻ nhỏ (trẻ lớn có thể dùng dạng viên uống). Thế nhưng thuốc này lại có mặt ở rất nhiều sản phẩm với tên gọi khác nhau (tùy theo nhà sản xuất). Vì vậy, vô tình hay cố ý, người lớn có thể cho trẻ dùng nhiều sản phẩm cùng lúc nhưng đều có chứa thành phần là paracetamol (hay còn có sản phẩm đề là acetaminophen).Khi dùng quá liều paracetamol có thể gây ngộ độc gan, nhất là với trẻ nhỏ khi chức năng gan, thận chưa hoàn chỉnh. Ngộ độc nặng có thể gây tử vong ở trẻ. Vì vậy, khi dùng thuốc này trẻ có dấu hiệu mệt mỏi, buồn nôn, nôn, khó chịu, vã mồ hôi, đau bụng chán ăn và thường không kèm rối loạn ý thức…  cần đưa trẻ đi khám để được xử lý kịp thời.

Ibuprofen cũng là một thuốc dùng để hạ sốt, giảm đau (thuộc nhóm thuốc chống viêm không steroid – NSAID). Trên thị trường, ibuprofen  được sản xuất dưới dạng siro, dung dịch… để uống dùng cho trẻ nhỏ. Hoạt chất này cũng có ở nhiều sản phẩm với tên gọi khác nhau và của nhiều nơi sản xuất (trong và ngoài nước). Tuy nhiên thuốc này có thể gây một số bất lợi trên đường tiêu hóa (viêm loét, chảy máu dạ dày), thận… Không dùng thuốc này cho trẻ em dưới 6 tháng tuổi mà không có chỉ định của bác sĩ. Khi dùng thuốc thấy xuất hiện các phản ứng quá mẫn như hen, có thắt phế quản, khó thở, phát ban, mày đay, phù mạch… cần ngừng thuốc và đưa trẻ đi cấp cứu kịp thời.

Thuốc kháng histamin như diphenhydramine  có trong nhiều sản phẩm trị ho, cảm lạnh ở trẻ. Thuốc này cũng có dạng viên nén, viên nang, viên nén bao phim, siro…  Diphenhydramine có tác dụng làm giảm dịch nhày ở đường hô hấp, giảm sổ mũi, các triệu chứng của dị ứng và giúp dễ ngủ. Diphenhydramine là một thuốc kháng histamin phổ biến. Khi dùng quá liều, thuốc có thể gây ngộ độc nặng với triệu chứng ức chế hệ thần kinh trung ương biểu hiện chủ yếu là mất điều hòa, chóng mặt, co giật, ức chế hô hấp. Ức chế hô hấp đặc biệt nguy hiểm ở trẻ nhỏ. Vì vậy,  khi xuất hiện các triệu chứng trên, trẻ cần phải được cấp cứu kịp thời.

Uống thuốc quá liều có chết được không

Luôn phải để thuốc xa tầm với của trẻ.

Phòng ngừa thế nào?

Để phòng ngừa tai nạn do quá liều thuốc ở trẻ, cần:

Các loại thuốc phải để xa khỏi tầm tay trẻ em hoặc không cho trẻ nhìn thấy thuốc. Cất thuốc trên các ngăn tủ cao ngay khi dùng xong. Xoáy nắp lọ thuốc chặt, đặc biệt là các lọ có khóa chống trẻ em… đề phòng vô tình trẻ uống phải gây quá liều, ngộ độc.

Khi dùng thuốc cần đọc kỹ mục thành phần của thuốc để tránh dùng nhiều loại thuốc có cùng hoạt chất. Các thành phần này thường được ghi ở phần trên cùng của nhãn thuốc. Vì nhiều loại thuốc dùng để điều trị các triệu chứng khác nhau nhưng lại có cùng một hoạt chất. Ví dụ, thuốc điều trị cảm lạnh và đau đầu với hai loại thuốc khác nhau nhưng cả hai sản phẩm đều có cùng thành phần hoạt chất là giảm đau paracetamol chẳng hạn. Nếu dùng cả hai loại sẽ dẫn đến tình trạng quá liều thuốc.

Chỉ dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ, không tự ý mua thêm thuốc dùng cho trẻ. Cần đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng và dùng đúng liều theo khuyến cáo ghi trên nhãn thuốc.

Sử dụng các thiết bị cung cấp liều lượng đi kèm với mỗi loại thuốc, chẳng hạn như một ống nhỏ giọt, cốc, thìa, muỗng… mà không sử dụng các dụng cụ đo lường khác như thìa chúng ta dùng ăn hàng ngày trong nhà bếp vì có thể sẽ cung cấp sai liều lượng thuốc. Và không bao giờ được uống thuốc nước trực tiếp từ chai, lọ thuốc.

Kiểm tra thuốc 3 lần trước khi sử dụng. Đối với bất kỳ loại thuốc nào, thực hành này luôn luôn cần thiết. Trước tiên, kiểm tra các bao bì bên ngoài xem có còn nguyên vẹn không. Thứ hai, kiểm tra nhãn trên bao bì bên trong để chắc chắn rằng bạn dùng có đúng thuốc không. Thứ ba, kiểm tra màu sắc, hình dạng, kích thước và mùi vị của thuốc. Nếu nhận thấy có bất cứ điều gì bất thường, hãy ngừng dùng sản phẩm thuốc đó.


DS. Nguyễn Thu Giang

Dùng thuốc quá liều (hay gọi đơn giản là quá liều hoặc OD) là việc đưa vào cơ thể hoặc tiếp nhận một lượng lớn thuốc vượt quá mức giới hạn được khuyến cáo[3] hoặc trong thực hành y tế nói chung.[4]. Quá liều có thể dẫn đến ngộ độc hoặc tử vong.[4]

Uống thuốc quá liều có chết được không
Dùng thuốc quá liềuTrong số hơn 72.000 ca tử vong ước tính vào năm 2017, mức tăng mạnh nhất liên quan đến fentanyl và fentanyl analogs (opioid tổng hợp) với hơn 29.000 ca tử vong[1]Chuyên khoaChất độc họcICD-10T36-T50ICD-9-CM960-979DiseasesDB3971MeSHD062787

Uống thuốc quá liều có chết được không

Thời gian biểu tỷ lệ tử vong do dùng thuốc quá liều của Mỹ theo chủng tộc và dân tộc.[2] Tỷ lệ trên 100.000 dân.

Từ "quá liều" ngụ ý có một liều lượng và sử dụng an toàn chung cho thuốc; vì thế, thuật ngữ này thường chỉ áp dụng cho các loại thuốc, chứ không phải là chất độc/thuốc độc, mặc dù chất độc vô hại với liều lượng thấp. Thuốc quá liều đôi khi được sử dụng cho mục đích cố ý tự sát, tự sát không thành hoặc tự hại, nhưng đa phần quá liều do tình cờ, kết quả của việc lạm dụng thuốc có chủ ý hoặc vô tình. Cố ý lạm dụng dẫn đến quá liều có thể bao gồm sử dụng thuốc theo hướng dẫn điều trị hoặc không được kê toa bởi bác sĩ với số lượng quá mức cho phép trong một nỗ lực mang lại cảm giác hưng phấn.

Việc sử dụng các loại thuốc bất hợp pháp có độ tinh khiết đáng ngờ, với số lượng lớn hoặc sau một thời gian cai thuốc cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng quá liều. Người dùng Cocaine qua đường tiêm tĩnh mạch dễ dàng bị quá liều một cách vô tình, vì ranh giới phân biệt giữa cảm giác thăng hoa với quá liều là rất nhỏ.[5] Việc lạm dụng không chủ ý bao gồm những sai sót do không đọc kỹ hoặc hiểu rõ nhãn mác sản phẩm. Quá liều tình cờ cũng do việc kê đơn quá mức quy định, không am hiểu thành phần hoạt tính của thuốc hoặc vô ý để trẻ em nuốt phải.[6] Một quá liều không chủ ý phổ biến ở trẻ nhỏ liên quan đến việc sử dụng multivitamin (hỗn hợp gồm nhiều vitamin khác nhau) bổ sung sắt. Sắt là thành phần cấu tạo phân tử hemoglobin trong máu, dùng để vận chuyển oxy đến các tế bào sống. Khi uống vào một lượng nhỏ, sắt cho phép cơ thể cung cấp hemoglobin, nhưng với số lượng lớn sẽ gây ra sự mất cân bằng pH nghiêm trọng trong cơ thể. Nếu tình trạng quá liều này không được điều trị kịp thời bằng liệu pháp Chelation (phương pháp loại bỏ độc tố và kim loại nặng ra khỏi cơ thể bằng axit ethylenediaminetetraacetic), bệnh nhân có thể tử vong hoặc hôn mê vĩnh viễn. Thuật ngữ 'quá liều' thường bị lạm dụng để mô tả các phản ứng hoặc tương tác bất lợi của thuốc do pha trộn đồng thời nhiều loại thuốc khác nhau.

Toxidrome[7]
anticholinergic ~ tăng ~ tăng co lại giảm giảm
cholinergic ~ ~ không đổi không đổi giãn ra tăng tăng
opioid giảm giảm giảm giảm giãn ra giảm giảm
sympathomimetic tăng tăng tăng tăng co lại tăng tăng
sedative-hypnotic giảm giảm giảm giảm ~ giảm giảm

Các dấu hiệu và triệu chứng của quá liều thay đổi tùy thuộc vào từng loại thuốc hoặc tiếp xúc với chất độc. Các triệu chứng thường được phân chia thành nhiều hội chứng độc khác nhau. Điều này giúp phân định loại thuốc hay độc tố nào gây ra phản ứng.

Các triệu chứng của quá liều opioid bao gồm làm chậm nhịp thở, nhịp tim và nhịp mạch.[8] Quá liều opioid cũng gây những triệu chứng pinpoint pupils, và xanh môi và móng tay do lượng oxy trong máu thấp. Một bệnh nhân trải qua quá liều opioid cũng bị co thắt cơ, co giật và giảm ý thức. Một bệnh nhân trải qua quá liều thuốc phiện thường sẽ không tỉnh dậy ngay cả khi tên của họ được gọi hoặc họ bị lắc mạnh.

Các loại thuốc hoặc độc tố thường gặp nhất liên quan đến quá liều và tử vong (được phân nhóm theo ICD-10):

  • Ngộ độc rượu cấp tính (F10)
    • Ethyl alcohol
    • Ngộ độc methanol
    • Ngộ độc ethylen glycol
  • Quá liều opioid (F11)
  • Thuốc an thần-thuốc ngủ(F13)
    • Quá liều barbiturate (T42.3)
    • Quá liều benzodiazepin (T42.4)
    • Thuốc an thần-thuốc ngủ chưa được phân loại (T42.6)
      • Ethchlorvynol (Placidyl)
      • GHB
      • Glutethimide (Doriden)
      • Methaqualone
      • Ketamine (T41.2)
  • Các chất kích thích (F14-F15)
    • Quá liều cocain (T40.5)
    • Quá liều amphetamin (T43.6)
    • Methamphetamine (T43.6)
  • Thuốc lá (F17)
    • Nicotin (T65.2)
  • Hỗn hợp nhiều chất gây nghiện (F19)
    • Drug "cocktails" (speedballs)
  • Dược phẩm
    • Ngộ độc aspirin (T39.0)
    • Ngộ độc paracetamol (Dùng riêng hoặc dùng chung với oxycodone)
    • Ngộ độc paracetamol (T39.1)
    • quá liều thuốc chống trầm cảm 3 vòng (T43.0)
    • ngộ độc vitamin
  • Ngộ độc thuốc trừ sâu (T60)
    • Ngộ độc phosphat hữu cơ
    • DDT

 

Than hoạt tính là một tác nhân hóa học thường được dùng để khử nhiễm đường tiêu hóa trong quá liều thuốc.

Ổn định đường hô hấp, hơi thở và lưu thông bệnh nhân (ABCs) là phương pháp điều trị ban đầu của quá liều. khơi thông khí được xem xét là khi tần số hô hấp thấp hoặc khi khí máu động mạch cho thấy người đó bị thiếu oxy. Theo dõi bệnh nhân trước và trong suốt quá trình điều trị, đặc biệt chú ý đến nhiệt độ, nhịp mạch, nhịp thở, huyết áp, thông số nước tiểu, điện tâm đồ (ECG) và bão hòa O2.[9] Các trung tâm kiểm soát nhiễm độc và nhà chất chất độc học sẳn sàng ở nhiều khu vực để hướng dẫn quá liều cho cả bác sĩ và cộng đồng.

Chất giải độc

Chất giải độc đặc hiệu có sẵn cho một số trường hợp quá liều. Ví dụ, naloxone là chất giải độc cho thuốc phiện cũng như heroin hoặc morphine. Tương tự, quá liều benzodiazepine có thể được đảo ngược tác dụng với flumazenil. Là một chất giải độc không đặc hiệu, than hoạt tính thường được khuyến cáo nếu có sẵn trong vòng một giờ sau khi uống và lượng uống vào không đáng kể.[10] Rửa dạ dày, siro ipecac, và tưới rửa toàn bộ ruột hiếm khi được sử dụng.[10] 

  1. ^ Overdose Death Rates. And Lưu trữ 2015-11-28 tại Wayback Machine By National Institute on Drug Abuse.
  2. ^ NCHS Data Visualization Gallery - Drug Poisoning Mortality. From National Center for Health Statistics. Open the dashboard dropdown menu and pick "U.S. Trends". From the menus on the right pick all races, all ages, and both sexes.
  3. ^ Definitions Lưu trữ 2011-02-27 tại Wayback Machine Retrieved on ngày 20 tháng 9 năm 2014.
  4. ^ a b "Stairway to Recovery: Glossary of Terms" Lưu trữ 2011-07-09 tại Wayback Machine.
  5. ^ Study on fatal overdose Lưu trữ 2012-01-19 tại Wayback Machine in New-York City 1990-2000, visited ngày 11 tháng 5 năm 2008
  6. ^ "What to do with leftover medicines". Medicines Talk, Winter 2005. Available at “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2010.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  7. ^ Goldfrank, Lewis R. (1998). Goldfrank's toxicologic emergencies. Norwalk, CT: Appleton & Lange. ISBN 0-8385-3148-2.
  8. ^ Chandler, Stephanie. “Symptoms of an opiate overdose”. Live Strong. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2012.
  9. ^ Longmore, Murray; Ian Wilkinson; Tom Turmezei; Chee Kay Cheung (2007). Oxford Handbook of Clinical Medicine. United Kingdom: Oxford. ISBN 0-19-856837-1.
  10. ^ a b Vanden Hoek, TL; Morrison, LJ; Shuster, M; Donnino, M; Sinz, E; Lavonas, EJ; Jeejeebhoy, FM; Gabrielli, A (2 tháng 11 năm 2010). “Part 12: cardiac arrest in special situations: 2010 American Heart Association Guidelines for Cardiopulmonary Resuscitation and Emergency Cardiovascular Care”. Circulation. 122 (18 Suppl 3): S829–61. doi:10.1161/CIRCULATIONAHA.110.971069. PMID 20956228.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Dùng_thuốc_quá_liều&oldid=65494329”