Người yêu của jisoo là ai

Góc tám chuyện

Xem thêm


Page 2

Góc tám chuyện

Xem thêm


Page 3

Góc tám chuyện

Xem thêm


Page 4

Góc tám chuyện

Xem thêm


Page 5

Góc tám chuyện

Xem thêm

Một trong những tin đồn hẹn hò nổi tiếng nhất của các thành viên BLACKPINK phải kể đến nghi vấn giữa Jisoo (BLACKPINK)Son Heung Min. Tin đồn giữa hai ngôi sao nổi tiếng đã có từ tận năm 2019 với bằng chứng Jisoo trực tiếp đi xem trận đấu của nam cầu thủ được xem là niềm tự hào của Hàn Quốc. Thời điểm đó, cả 2 bên đều không có bất kỳ phản hồi nào, và tin đồn này cũng lắng xuống nhanh chóng vì bằng chứng được cho là chưa đủ thuyết phục. Tuy nhiên mới đây tin đồn hẹn hò này lại tiếp tục bùng nổ khi nhiều netizen Hàn lại tiếp tục tìm ra thêm những bằng chứng đáng nghi ngờ khác về cặp đôi trai tài gái sắc này. 

Người yêu của jisoo là ai

Nam cầu thủ Son Heung Min và nữ idol Kpop Jisoo (BLACKPINK) 

Tin đồn hẹn hò của Son Heung Min và Jisoo lần đầu xuất hiện khi Jisoo chia sẻ 2 bức ảnh trên Instagram Story của mình vào ngày 14/9/2019. Theo đó, cô đã trực tiếp đến sân vận động Hotspur ở London và cổ vũ cho nam cầu thủ Hàn Quốc đang chơi cho Tottenham trong trận đấu vòng thứ 5 của giải Ngoại hạng Anh (2019-2020). Trong trận này, Son Heung Min đã ghi đến 2 bàn vào lưới đối thủ Crystal Palace và sau đó đội Tottenham giành chiến thắng chung cuộc. Ở cả 2 lần, Jisoo đều đăng Story riêng để chúc mừng nam cầu thủ. 

Trên thực tế, bất kỳ một người Hàn nào cũng sẽ cổ vũ cho Son Heung Min, nhưng việc Jisoo dành thời gian trực tiếp đến xem trong thời gian dự Fashion Week tại London đã khiến nhiều người nghi ngờ mối quan hệ giữa họ. Ngoài ra, bản thân Son Heung Min cũng là một nam cầu thủ đào hoa và từng hẹn hò với nhiều mỹ nhân, trong đó có 2 nữ idol đình đám là Yoo So Young và Minah (Girl's Day). 

Người yêu của jisoo là ai

Người yêu của jisoo là ai

Jisoo trực tiếp đến xem Tottenham thi đấu vào năm 2019 và đăng story cổ vũ, chúc mừng khi Son Heung Min ghi bàn 

Người yêu của jisoo là ai

Truyền thông quốc tế đưa tin Jisoo đến xem trực tiếp trận bóng cổ vũ cho Son Heung Min 

Vào 2 năm sau, tin đồn hẹn hò giữa Jisoo và Son Heung Min lại dấy lên, lần này là do netizen tiếp tục khui thêm những bằng chứng mới khác. Đầu tiên chính là thời điểm mà Son Heung Min và Jisoo cùng về lại Hàn Quốc với thời điểm và thời gian trùng hợp bất ngờ.

Theo truyền thông Hàn Quốc, Son Heung Min đã bay về lại Hàn Quốc với chuyến bay hạ cánh tại sân bay quốc tế Incheon vào ngày 5/10 để tham dự trận đấu giữa tuyển Hàn Quốc và Syria. Trận đấu này đã diễn ra vào ngày 7/10 thuộc khuôn khổ Vòng loại FIFA World Cup 2022 châu Á. Tuy nhiên điểm đáng lưu ý là khi nhìn lịch trình bay của nam cầu thủ, thay vì anh bay từ London, Anh (nơi anh đang thi đấu cho Tottenham) thì anh lại bay về Hàn Quốc từ Paris. 

Theo truyền thông, Song Heung Min bay về lại Hàn Quốc vào hôm 5/10 từ Paris 

Jisoo cũng tình cờ trở về Hàn Quốc vào cùng ngày 5/10 sau khi kết thúc lịch trình tại Paris khi tham dự 'Paris Fashion Week' với tư cách đại sứ thương hiệu Dior. Sự trùng hợp giữa việc cả 2 ngôi sao đều cùng bay từ Pháp về Hàn trong một ngày một lần nữa khiến netizen nghi ngờ họ thật sự đã hẹn hò với nhau. 

Jisoo cũng bay về lại Hàn Quốc vào hôm 5/10 từ Paris

Bên cạnh sự việc Jisoo từng đến xem Son Heung Min thi đấu vào năm 2019, hay việc cả hai có cùng lịch trình bay mới đây, thì netizen Hàn thậm chí còn soi ra được cả hai đang dùng đồ đôi - cụ thể là một cặp vòng tay. Theo đó trên cổ tay Son Heung Min có đeo một chiếc vòng, và những ai thường theo dõi các trận đấu sẽ biết việc anh có thói quen hôn lên chiếc vòng tay này như một kiểu ăn mừng bàn thắng. Anh cũng đeo chiếc vòng tay này ở nhiều sự kiện khác. 

Người yêu của jisoo là ai

Người yêu của jisoo là ai

Chiếc vòng trên tay trái của Son Heung Min 

Người yêu của jisoo là ai

Son Heung Min hôn lên vòng tay khi ghi bàn thắng 

Netizen soi ra được rằng Jisoo cũng đã đeo một chiếc vòng tay có thiết kế tương tự, cũng ở vị trí cổ tay trái giống với Son Heung Min. Nhiều người cho rằng đây cũng là một 'hint' về mối quan hệ chưa được công khai của Jisoo và Son Heung Min.

Người yêu của jisoo là ai

Chiếc vòng trên tay trái của Jisoo...

Người yêu của jisoo là ai

... Được cho là vòng đôi với Son Heung Min 

Dù vậy tính đến nay, cả hai phía đều không có bất kỳ phản hồi nào liên quan. Mặc dù mối quan hệ của họ có thể xem chỉ là tin đồn nhưng rất nhiều Knet đã bày tỏ sự ủng hộ, thậm chí nhiệt liệt 'đẩy thuyền' cho cặp đôi trai tài gái sắc này. Họ cho biết nếu thật sự quen nhau thì đây là một cặp đôi rất đẹp và sẽ nhận được sự ủng hộ rất lớn. Trong khi đó, có nhiều fan lại cho rằng những bằng chứng này vẫn chưa thể nói lên được Son Heung Min và Jisoo có thật sự yêu đương hay không.

Một số bình luận của Knet: 

- Son Heung Min hường hẹn hò với những nữ idol Kpop xinh đẹp nhất.

- Tôi có cảm giác cặp đôi này là thật. Dù không rõ thực hư nhưng tôi vẫn muốn chúc phúc cho họ.

- Jisoo và Son Heung Min trông rất hợp nhau.

-Hai người họ trông rất đẹp đôi!!

- Vụ này đã bắt đầu hot từ khi Jisoo sang xem Son Heung Min thi đấu hồi 2019 rồi. 

Nhưng mà vòng tay thì hơi khiên cưỡng nhỉ?!! 

- Nếu họ thật sự quen nhau thì tôi sẽ ủng hộ và chúc mừng!!

- Wow, một cặp đôi rất đẹp!! 

- Hẹn hò thật sự thì đỉnh lắm luôn!! Một cặp đôi trai tài gái sắc!!

- Nhưng mà cái vụ lịch trình bay thì đáng ngờ thật đó hahaha!!! 

- Có thể lắm, Son Heung Min rất thích hẹn hò với những nữ idol Kpop xinh đẹp nổi tiếng mà. 

- Họ mà hẹn hò thật thì sẽ trở thành Beckham và Victoria của Hàn Quốc. 

- Tôi không biết có đúng không nhưng nếu là thật thì xin chúc mừng. 

Người yêu của jisoo là ai

Bạn nghĩ gì về tin đồn hẹn hò giữa Son Heung Min và Jisoo? 

Từ Khóa:

Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Kim.

Kim Ji-soo (tiếng Hàn: 김지수; sinh ngày 3 tháng 1 năm 1995), thường được biết đến với nghệ danh Jisoo, là một nữ ca sĩ, diễn viên, người dẫn chương trình người Hàn Quốc, thành viên lớn tuổi nhất của nhóm nhạc nữ Blackpink do YG Entertainment thành lập và quản lý.

Người yêu của jisoo là ai

Jisoo

Jisoo chụp ảnh cho Marie Claire Korea vào tháng 9 năm 2021

Sinh3 tháng 1, 1995 (27 tuổi)
Gunpo, Gyeonggi-do, Hàn QuốcNghề nghiệp

  • Ca sĩ
  • Diễn viên
  • Người dẫn chương trình

Sự nghiệp âm nhạcDòng nhạc

  • K-pop
  • dance-pop
  • hip hop

Nhạc cụGiọng hátNăm hoạt động2016–nayHãng đĩa

  • YG Entertainment
  • Interscope[1]

Hợp tác với

  • Blackpink
  • YG Family

Tên tiếng Triều TiênHangul

김지수

Hanja

金智秀

Romaja quốc ngữGim Ji-suMcCune–ReischauerKim ChisuHán-ViệtKim Trí Tú
Người yêu của jisoo là ai

Sinh ra tại thành phố Gunpo, tỉnh Gyeonggi, Jisoo gia nhập YG Entertainment vào năm 2011, trở thành thực tập sinh trong vòng 5 năm trước khi ra mắt cùng Blackpink vào tháng 8 năm 2016. Kể từ khi ra mắt, Jisoo cùng Blackpink đã từng bước trở thành hiện tượng toàn cầu, chinh phục thị trường Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác.[2][3][4] Bên cạnh vai trò là ca sĩ, thần tượng K-pop, Jisoo còn tham gia diễn xuất và dẫn chương trình. Cô đóng nhiều quảng cáo, tham gia nhiều bộ phim dưới vai trò khách mời trước khi nhận được vai diễn chính đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất trong bộ phim truyền hình Snowdrop lên sóng vào cuối năm 2021.

Cô được lựa chọn làm gương mặt đại diện của nhiều nhãn hàng nổi tiếng, từng xuất hiện trên trang bìa của nhiều tạp chí danh tiếng với tư cách cá nhân cũng như với các thành viên khác trong nhóm. Cùng với các thành viên khác của Blackpink, cô được xem như một biểu tượng của sự sang trọng và phong cách trong ngành giải trí Hàn Quốc.[5]

Kim Ji-soo sinh ngày 3 tháng 1 năm 1995[6] tại phường Sanbon-dong, thành phố Gunpo, tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc.[7][8] Cô là con út trong một gia đình có 3 anh chị em,[9][10] anh trai tên là Junghun,[11][12] còn chị gái tên là Ji-yoon.[13][14] Gia thế thực sự của cô đối với truyền thông đại chúng vẫn là một bí ẩn, nhưng đại đa số các nguồn tin đều cho rằng Jisoo xuất thân từ một gia đình có tài chính tốt.[15][16][17]

Jisoo từng theo học tại trường Trường Trung học Biểu diễn Nghệ thuật Seoul.[2] Sinh ra trong một gia đình yêu thích âm nhạc nên ngay từ khi còn bé, cô thường xuyên hát và nhảy trước mặt mọi người trong những buổi họp mặt và nhận được nhiều lời khen ngợi. Đây cũng chính là động lực lớn khiến cô đam mê biểu diễn trên sân khấu và hạ quyết tâm tham gia các cuộc thi tuyển.[18][19]

Jisoo trở thành thực tập sinh cho dự án New Girl Group của YG Entertainment vào tháng 7 năm 2011.[20] Trong buổi thử giọng với YG (YG Audition) cô đã thể hiện ca khúc "I Have A Lover" của Lee Eunmi.[9] Theo lời tự sự của chính Jisoo, trong một lần tham dự buổi hòa nhạc của công ty chủ quản, cô đã được một số nhà tìm kiếm tài năng của SM Entertainment tiếp cận và được ngỏ lời mời gia nhập công ty của họ. Tuy nhiên cô đã từ chối lời đề nghị này vì bản thân cô lúc bấy giờ đã là thực tập sinh bí mật của YG.[21] Vào tháng 5 năm 2012, Yang Hyun-suk hé lộ những bức hình đầu tiên của Jisoo mà không tiết lộ danh tính kèm câu hỏi "Who’s That Girl?", ám chỉ rằng cô sẽ là thành viên "nhóm nữ mới" mà ông đã đề cập vào năm 2010. Đến tháng 1 năm 2013, phía YG chính thức xác nhận Jisoo sẽ là gương mặt xuất hiện trong nhóm nhạc nữ mới của họ.[2] Trước khi ra mắt, Jisoo từng tham gia diễn xuất, đóng nhiều quảng cáo, video âm nhạc và thậm chí là cả phim truyền hình. Tháng 10 năm 2014, cô xuất hiện trong video âm nhạc "Spoiler" của Epik High.[22] Vào ngày 18 tháng 11 cùng năm, cô một lần nữa xuất hiện trong video âm nhạc "I'm Different" của Hi Suhyun.[23] Cô xuất hiện trong nhiều quảng cáo của nhiều nhãn hàng, bao gồm Samsonite bên cạnh Lee Min-ho,[24] Smart Uniform,[25] LG Electronics[26] và Nikon.[27] Tháng 5 năm 2015, cô tham gia bộ phim Hậu trường giải trí với vai trò diễn viên khách mời trong các tập 4–5, 12[28] cùng các đồng nghiệp ở công ty là Sandara Park của 2NE1 và Kang Seung-yoon của Winner.[29][30]

2016–2017: Ra mắt cùng Blackpink

 

Jisoo tại một sự kiện của UNICEF vào ngày 14 tháng 5 năm 2017

Ngày 15 tháng 6 năm 2016, công ty YG tiết lộ hình ảnh của Jisoo với tư cách là thành viên thứ ba và cũng là thành viên lớn tuổi nhất của nhóm nhạc nữ mới.[31] Ngày 8 tháng 8 năm 2016, cô chính thức ra mắt với tư cách là thành viên của Blackpink bên cạnh 3 người khác là Jennie, Rosé, Lisa với album đĩa đơn Square One gồm 2 bài hát "BoomBayah" và "Whistle".[32][33][34] Đĩa đơn đã thu về thành công lớn khi dành thứ hạng vị trị số 1 của Worldwide iTunes Album Chart cũng như trên bảng xếp hạng iTunes của 14 quốc gia khác nhau như Indonesia, Malaysia, Thổ Nhĩ Kỳ, Thái Lan.[35] Ngay lập tức, Blackpink nhận được nhiều sự hoan nghênh ở khắp nơi, được giới báo chí mệnh danh là tân binh "khủng long".[36] Ngày 14 tháng 8 đánh dấu lần đầu tiên Jisoo cùng nhóm xuất hiện trên sân khấu chương trình âm nhạc "Inkigayo" của kênh truyền hình SBS. Ngày 21 cùng tháng, ca khúc "Whistle" đã mang về cho Blackpink chiếc cúp đầu tiên tại chương trình Inkigayo, trở thành nhóm nhạc nữ có chiến thắng đầu tay nhanh nhất trong lịch sử K-pop chỉ sau 13 ngày, vượt qua kỷ lục 22 ngày trước đó của Miss A.[37] Vào ngày 1 tháng 11 năm 2016, album đĩa đơn mới của nhóm là Square Two cùng hai ca khúc mới "Playing with Fire" và "Stay" chính thức lên sóng.[38] Với ca khúc "Playing with Fire", Blackpink trở thành nhóm nhạc K-pop nữ đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng đĩa đơn do tạp chí Billboard phát hành hàng tuần tại Canada.[39]

Vào ngày 5 tháng 2 năm 2017, Jisoo lần đầu đảm nhận vai trò người dẫn chương trình trên Inkigayo bên cạnh Doyoung của NCT và Park Jin-young của GOT7.[40][41] Trong chương trình ngày hôm đó, cả ba đã có màn trình diễn cá nhân trước khi kết hợp cùng nhau trong một tiết mục vũ đạo trên nền nhạc "Someone in the Crowd", nhạc phim Những kẻ khờ mộng mơ.[42] Vào ngày 22 tháng 6 năm 2017, cô cùng Blackpink chính thức ra mắt ca khúc "As If It's Your Last". Video âm nhạc của bài hát sớm trở thành MV cán mốc 10 triệu lượt xem nhanh nhất đối với nhóm nhạc tại thời điểm đó khi nó chạm đến con số này trong vòng chưa đầy 17 tiếng.[43][44] Ca khúc dẫn đầu bảng xếp hạng iTunes tại 18 khu vực,[45] đạt được vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng âm nhạc tại Hàn Quốc, trở thành nhóm nhạc nữ K-pop làm được điều này trong thời gian ngắn nhất.[46][47][48] Vào ngày 20 tháng 7, nhóm đã tổ chức Showcase đầu tiên ở nước ngoài tại Nippon Budokan, Tokyo, Nhật Bản, chính thức ra mắt tại quốc gia này.[49][50][51] Mini album tiếng Nhật đầu tay mang tên "Blackpink" của nhóm đã được phát hành vào ngày 30 tháng 8.[52][53][54] Tháng 11 năm đó, ca khúc "As If It's Your Last" đã xuất hiện trong một phân cảnh của bộ phim siêu anh hùng Liên minh Công lý của hãng Warner Bros.[55][56][57]

2018–2019: Đột phá cùng nhóm

 

Jisoo tại sự kiện của Cartier tại Seoul vào ngày 19 tháng 9 năm 2019

Tháng 1 năm 2018, chương trình thực tế Blackpink House với nội dung xoay quanh cuộc sống hàng ngày của bốn cô gái được ra mắt trên đài truyền hình Hàn Quốc JTBC.[58][59] Vào ngày 4 tháng 2, bộ ba Jisoo, Doyoung và Jinyoung đã thực hiện buổi phát sóng cuối cùng trên Inkigayo, kết thúc khoảng thời gian dài 1 năm đảm nhiệm vai trò "chủ nhà" tại chương trình này.[60] Ngày 28 tháng 3, mini album Nhật Bản của nhóm được phát hành lại với tựa đề Re: Blackpink. Vào ngày 15 tháng 6, đĩa mở rộng tiếng Hàn đầu tiên của nhóm là Square Up được phát hành.[61] Bao gồm bài hát chủ đề mang tên "Ddu-Du Ddu-Du"[62] và 3 bài hát khác "Forever Young", "Really" và "See U Later", mini album nay nhanh chóng đoạt được ví trí cao nhất của Gaon Album Chart[63][64] cũng như vị trí thứ 40 trên U.S. Billboard 200, trở thành album bán chạy nhất của Blackpink tại thị trường phương Tây cũng như đưa nhóm trở thành nhóm nữ K-pop có thứ hạng cao nhất trên bảng xếp hạng Billboard.[65][66][67][68] Blackpink đã mở màn chuyến lưu diễn Nhật Bản của họ với buổi biểu diễn tại Osaka vào ngày 24–25 tháng 7, kết thúc chặng 1 với buổi biểu diễn tại Chiba vào ngày 24–26 tháng 8.[69][70][71] Điểm dừng cuối cùng của tour diễn ra vào ngày 24 tháng 12 tại Kyocera Dome Osaka[72] như một món quà Giáng Sinh dành cho người hâm mộ của nhóm, điều này khiến nhóm trở thành nhóm nhạc nữ nước ngoài đầu tiên biểu diễn tại sân vận động mái vòm tại Nhật, sau khi ra mắt tại đây 1 năm 4 tháng. Blackpink kết hợp với nữ ca sĩ người Anh Dua Lipa trong ca khúc "Kiss and Make Up" vào tháng 10 năm đó.[73][74] Cô là người duy nhất thể hiện tiếng Hàn trong bài, trong khi các thành viên còn lại cũng như Dua Lipa đều thể hiện bằng tiếng Anh.[75][76]

Đầu năm 2019, Jisoo cùng Blackpink khởi động chuyến lưu diễn thế giới của mình "Blackpink 2019 World Tour in Your Area", với buổi trình diễn tại Bangkok, Thái Lan từ ngày 11–13 tháng 1.[77] Trong một thông báo vào ngày 8 tháng 2, chủ tịch YG Entertainment Yang Hyun Suk tiết lộ rằng Lisa và Jisoo sẽ là hai thành viên cuối cùng thực hiện màn solo của mình.[78] Cũng trong tháng 2, nhóm đã lên hình trên một số chương trình truyền hình nổi tiếng của Hoa Kỳ[79][80] cũng như được thông báo sẽ xuất hiện trên ảnh bìa của tạp chí Billboard vào số tháng ba, trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có được vinh dự này.[81][82] Vào ngày 5 tháng 4, nhóm đã cho ra mắt mini album thứ 2 Kill This Love gồm bài chủ đề cùng tên và 4 bài hát "Don't know what to do", "Kick It", "Hope Not" và "Ddu-Du Ddu-Du Remix".[83] Album đạt thành công vang dội trên thị trường quốc tế, trong đó ca khúc chủ đề "Kill This Love" đạt vị trí thứ 26 trên bảng xếp hạng UK Official Singles Chart.[84] Một tuần sau, vào ngày 12 tháng 4, Blackpink trở thành nghệ sĩ Kpop đầu tiên diễn tại Coachella.[85][86][87] Vào trung tuần tháng 6, Jisoo xuất hiện với vai trò là diễn viên khách mời trong tập 7 của bộ phim Biên niên sử Arthdal, công chiếu trên kênh tvN và dịch vụ xem phim trực tuyến Netflix.[88][89] Tuy chỉ lên hình vỏn vẹn 14 giây với duy nhất một lời thoại nhưng Jisoo vẫn nhận được sự quan tâm của công chúng. Các từ khóa liên quan tới cô nhanh chóng đứng đầu top tìm kiếm của nhiều nước trên thế giới, bao gồm cả Việt Nam.[90][91] Vào ngày 16 tháng 10, nhóm phát hành phiên bản tiếng Nhật của mini album Kill This Love cũng như bắt đầu triển khai một số hoạt động tại Nhật Bản.[92]

2020–nay: Khẳng định tên tuổi và vai diễn chính đầu tiên trong sự nghiệp

 

Jisoo tại một sự kiện đầu năm 2020

Ca khúc "Sour Candy" nằm trong album Chromatica của Lady Gaga chính thức ra mắt và đạt hàng loạt kỷ lục.[93] Với vị trí 33 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, "Sour Candy" trở thành bài hát xếp hạng cao nhất của nhóm ở Mỹ cho đến nay cũng như bài hát xếp hạng cao nhất của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc.[94] Vào ngày 13 tháng 6, YG Entertainment bất ngờ đăng tải một video mở đầu cho chương trình truyền hình thực tế mới nhất của Blackpink, 24/365 with Blackpink, được phát hành trên YouTube. Chương trình ghi lại hoạt động comeback sắp tới của nhóm cũng như cuộc sống của các thành viên thông qua các vlog.[95] Nhóm phát hành ca khúc "How You Like That" vào ngày 26 tháng 6, cán mốc 86,3 triệu lượt xem chỉ sau 1 ngày cũng như xác lập thêm 5 kỷ lục Guinness mới.[96][97][98] Đây là khúc dạo đầu cho album chính thức đầu tiên của nhóm. Trước thềm comeback, Jisoo cùng 2 thành viên khác là Rosé và Jennie đã chính thức xác nhận tài khoản Weibo và bắt đầu chiến dịch quảng bá ở Trung Quốc.[99][100]

Ngày 28 tháng 8, đĩa đơn cùng với video âm nhạc "Ice Cream" kết hợp giữa Blackpink và Selena Gomez được phát hành, là đĩa đơn mở đường thứ hai cho album phòng thu đầu tiên "The Album" ra mắt vào ngày 2 tháng 10 năm 2020.[101][102] Ca khúc được nhận xét là ngọt ngào và tràn ngập sắc hồng, trái ngược phong cách "cool ngầu" từ trước đến giờ của nhóm. Vào ngày 18 tháng 8 năm 2020, Jisoo được thông báo sẽ trở thành nữ chính của bộ phim truyền hình Snowdrop của đài JTBC.[103] Đây cũng sẽ là vai diễn chính đầu tiên của cô, vì dù trước đó cô đã từng tham gia diễn xuất trong các bộ phim truyền hình nhưng chỉ trong vai trò khách mời.[104][105] Ngày 30 tháng 9, danh sách những bài hát nằm trong album của nhóm chính thức được công bố cùng với ca khúc chủ đề mang tên "Lovesick Girls". Ca khúc có sự tham gia viết lời của Jisoo và Jennie.[106][107][108] Trước đó vào ngày 8 tháng 9, Netflix và Blackpink thông báo rằng bộ phim tài liệu BLACKPINK: Light Up The Sky ra mắt vào ngày 14 tháng 10,[109] kể về bốn năm hoạt động từ lần ra mắt đầu tiên của Blackpink vào năm 2016 với các cảnh quay từ những ngày nhóm luyện tập để nhìn lại cuộc sống gia đình của họ, những câu chuyện hậu trường cùng những cuộc phỏng vấn chân thực với các thành viên.[110][111][112]

 

Jisoo tại một sự kiện của Dior vào tháng 8 năm 2019

Trong cuộc bình chọn thường niên của Gallup Korea vào năm 2018, Jisoo đứng ở vị trí số 10 trong danh sách những thần tượng K-pop được yêu thích nhất năm.[113][114] Vào thời điểm tháng 4 năm 2019, cô là nghệ sĩ K-pop có lượt theo dõi nhiều thứ mười trên mạng xã hội Instagram với 12,8 triệu người theo dõi.[115] Nhờ những thành công của Blackpink trên trường quốc tế nên chỉ sau hơn 1 năm, Jisoo đã vươn lên vị trí thứ 4 trong danh sách này với gần 29 triệu lượt theo dõi tính đến tháng 9 năm 2020.[116] Cũng vào năm 2019, Jisoo đã đứng ở vị trí số 6 trong danh sách các nữ thần tượng được yêu thích nhất trong quân đội Hàn Quốc.[117] Jisoo cũng là nữ thần tượng K-pop duy nhất được chọn là một phần của BoF 500, một danh sách những nhân vật đang có sức ảnh hưởng đến ngành thời trang trị giá 2.400 tỷ USD từ mọi quốc gia trên thế giới.[118][119] Cô được miêu tả là "hát phụ từ nhóm nhạc nữ K-pop Blackpink — người đã và đang làm việc cùng Louis Vuitton và Dior Cosmetic trong các hợp đồng quảng cáo cùng nhóm, đồng thời là gương mặt ưa thích từ các hãng thời trang cho vị trí front row."[a][120] Năm 2020, cô lọt vào danh sách 10 người nổi tiếng và có ảnh hưởng hàng đầu thế giới mỹ phẩm trong 5 tháng đầu năm. Tạp chí thời trang Women's Wear Daily đã tiết lộ rằng Jisoo dẫn đầu bảng xếp hạng trong tương tác trung bình trên mỗi bài đăng, tiếp đến là Rihanna và Kylie Jenner.[121] Là người châu Á duy nhất có tên trong danh sách, Jisoo đứng ở vị trí thứ 7 trong bảng xếp hạng tổng thể, tuy nhiên cũng là người sở hữu ít bài đăng nhất với tổng cộng 12 bài.[122]

 

Jisoo tại lễ trao giải Golden Disc Awards 2019

Vào tháng 6 năm 2020, Jisoo đã gây được sự chú ý bằng vẻ ngoài của mình trong các đoạn teaser cho đĩa đơn "How You Like That" của nhóm.[123] Nhiều người nổi tiếng và những người có ảnh hưởng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan và Việt Nam, đã tạo lại kiểu trang điểm và "kiểu tóc hai nơ" do chính Jisoo tạo ra. Kiểu cách trang điểm với đôi mắt to tròn được vẽ tỉ mỉ trở thành điểm nhấn nổi bật nhất trên gương mặt và phấn má được kéo dài từ bọng mắt xuống đã trở thành xu hướng. Phong cách chấm bi của Jisoo cũng đã trở nên phổ biến trên mạng xã hội Instagram kèm theo hashtag #JisooMakeup để tạo thử thách cho những người hâm mộ nước ngoài.[124][125][126] Những kiểu trang điểm và quần áo phá cách, mới lạ của Jisoo cùng các thành viên khác trong video âm nhạc "How You Like That",[127] đặc biệt là mẫu trang phục Hanbok cách tân, dù vấp phải chỉ trích về bảo tồn văn hóa,[128] đã trở thành tâm điểm được chú ý trên mạng xã hội.[129][130][131]

Vào tháng 7 năm 2020, Jisoo được xem là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong việc quảng cáo thương hiệu thể thao Adidas của Đức, bên cạnh cầu thủ bóng đá Cristiano Ronaldo.[132] Vào tháng 9 năm 2020, nhà sáng lập kiêm nhà thiết kế người Malaysia của Self-Portrait, Han Chong, đã gọi Jisoo cùng Lisa của Blackpink là 2 trong số It Girl nổi tiếng ở châu Á.[133] Năm 2020, Jisoo cũng dẫn đầu bảng xếp hạng danh tiếng thương hiệu thành viên nhóm nhạc nữ, một bảng xếp hạng được Viện Nghiên cứu Doanh nghiệp Hàn Quốc tạo ra thông qua phân tích các hoạt động cá nhân tham gia, tần suất xuất hiện trên các phương tiên truyền thông, khả năng tác động tới công chúng và độ phổ biến với cộng đồng.[134]

Vào năm 2020, doanh số bán hàng của thương hiệu Dior gia tăng trong đại dịch COVID-19 ở Hàn Quốc cũng là nhờ chiến dịch tiếp thị sử dụng nhiều ca sĩ, thần tượng Hàn Quốc bao gồm cả Jisoo.[135] Jisoo đã góp phần cho khởi đầu thành công của mẫu túi xách Bobby mới của Dior, một chiến dịch có sự góp mặt của những tên tuổi nổi bật của làng thời trang như Chiara Ferragni và Kat Graham.​[136] Nữ diễn viên người Philippines Liza Soberano từng chia sẻ rằng cô lấy cảm hứng cho phong cách thời trang với chiếc khăn Oblique của Dior sau khi thấy Jisoo diện nó trong chiến dịch quảng bá Thu - Đông năm 2020 của hãng.[137] Jisoo lọt top 7 gương mặt thời trang - danh sách nữ Châu Á do tạp chí I-magazine bình chọn năm 2020, tăng 28 so với năm 2019 [138], là ngôi sao Hàn Quốc có vị trí cao thứ 3.

 

Jisoo trong buổi chụp hình với tạp chí Marie Claire Korea vào tháng 10 năm 2021

Jisoo từng xuất hiện trên các tạp chí thời trang danh tiếng như Vogue,[139] Elle,[140] Harper's Bazaar,[141] Marie Claire,[142] Cosmopolitan.[143] .Trong số đó Elle, Harper's Bazaar là 2 tạp chí mà Jisoo xuất hiện nhiều nhất.[144] hghg

Jisoo trở thành đại sứ khu vực Hàn Quốc của thương hiệu mỹ phẩm "Dior Beauty" vào tháng 12 năm 2019.[145] Mùa hè năm 2020, cô được tuyển chọn làm nàng thơ của Dior[146] và làm người mẫu cho bộ sưu tập Thu/Đông 2020 của hãng.[147] Tháng 9 năm 2020, Jisoo lên bìa tạp chí Dazed Korea số 155 đồng thời chia sẻ về công việc của mình với Dior.[148][149] Cô từng bị nhiều người nghi ngờ với danh hiệu đại sứ của "Dior Beauty". Có người cho rằng cô chỉ là "đại sứ tự xưng" chứ hoàn toàn "không có danh phận" đối với thương hiệu thời trang này. Tuy nhiên, vào cuối tháng 9, trang Instagram chính thức của Dior đã đăng tải phần hình ảnh của Jisoo ở vị trí nổi bật, qua đó khẳng định được vị trí của cô tại Dior.[150] Khi giới thiệu bộ sưu tập Xuân/Hè 2021, Jisoo được khen ngợi vì đã quảng bá được cảm hứng nữ quyền mà Giám đốc Sáng tạo Maria Grazia Chiuri đưa vào thời trang của Dior.[151] Trong một đoạn video ngắn đăng tải trên Instagram, cô chia sẻ suy nghĩ về "sức mạnh ẩn sau sự thanh lịch" trên thiết kế của Chiuri, cũng như các mẫu thiết kế từ bộ sưu tập mà cô ấn tượng nhất.[152] Jisoo cũng là một trong ba đại diện thuộc thế hệ MZ Hàn Quốc được chọn làm nhân vật chính trong chiến dịch quảng cáo "Pasha de Cartier" của Cartier vào đầu tháng 9 năm 2020.[153]

Tháng 1 năm 2021, Dior phát hành độc quyền tại Hàn Quốc sản phẩm phấn nền "Dior Forever Skin Glow Cushion" do Jisoo tiếp thị.[154] Cô sau đó xuất hiện trong Bộ sưu tập Xuân Hè của Dior.[155][156] Ngày 6 tháng 3 năm 2021, Jisoo bắt đầu mở rộng quan hệ đối tác lâu dài với Dior. Cô được nhà mốt đến từ nước Pháp chọn làm đại sứ toàn cầu ở cả 2 mảng thời trang và làm đẹp bên cạnh những tên tuổi khác như Natalie Portman hay Cara Delevingne,[157] trở thành người Châu Á nắm giữ vai trò này.[158]

Jisoo là thành viên duy nhất của Blackpink sinh ra và lớn lên tại Hàn Quốc.[17] Cô là một người hâm mộ của bộ môn bóng rổ[159] và đặc biệt tích cực tham gia các hoạt động ngoại khóa thời còn đi học. Cũng có tin đồn rằng Jisoo từng tham gia câu lạc bộ diễn xuất của trường mình và thần tượng diễn xuất của cô là hai nữ diễn viên Son Ye-jin và Natalie Portman.[160] Bên cạnh tiếng Hàn mẹ đẻ, cô còn có thể sử dụng tiếng Nhật và một ít tiếng Trung.[161] So với các thành viên khác trong nhóm, Jisoo kém hơn về khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.[162] Cô khá rụt rè và không tự tin khi sử dụng ngôn ngữ này nhưng vẫn cố gắng trau dồi vốn tiếng Anh mỗi ngày để có thể chia sẻ nhiều hơn với người hâm mộ nước ngoài.[163]

Năm Nghệ sĩ Ca khúc Album Lời Nhạc Nguồn
2020 Blackpink "Lovesick Girls" The Album Không [164]
Năm Kênh Tên Vai trò Vai diễn Nguồn
2015 KBS The Producers Khách mời [165]
2017 Netflix Temporary Idol [166]
2018 YG Future Strategy [166]
2019 tvN Biên niên sử Arthdal Sae Narae [167]
2021 JTBC Snowdrop Vai chính Eun Young-ro [168]
Năm Tựa đề Nghệ sĩ Nguồn
2014 "Spoiler + Happen Ending" Epik High [169][170]
"I'm Different" Hi Suhyun ft. Bobby [169][170]
Năm Kênh Tên Ngày Ghi chú
2017 SBS Inkigayo 5 tháng 2 năm 2017 - 4 tháng 2 năm 2018 Với Jinyoung (Got7) và Doyoung (NCT 127)
Inkigayo Super Concert in Daejeon Với V (ca sĩ) (BTS) và Jinyoung (Got7)
Năm Giải thưởng Hạng mục Đề cử Kết Quả
2021 Weibo Starlight Awards[171] Đại sảnh danh vọng ánh sao Weibo (Hàn Quốc) Jisoo Đoạt giải
The Fact Music Awards[172] Người hâm mộ và ngôi sao chọn lựa (cá nhân) Đề cử

  1. ^ "Front row" là một thuật ngữ dùng để chỉ hàng ghế đầu trong những buổi trình diễn thời trang.

  1. ^ Herman, Tamar (22 tháng 10 năm 2018). “BLACKPINK Sign With Interscope Records & UMG in Global Partnership With YG Entertainment: Exclusive”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2018.
  2. ^ a b c Benjamin, Jeff (6 tháng 6 năm 2020). “Jisoo of Blackpink: from 'mystery girl' to global sensation”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  3. ^ Ngọc Anh (29 tháng 6 năm 2020). “Choáng váng với những kỷ lục công phá toàn cầu của Black Pink với 'bom tấn' mới”. Tiền Phong. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2020.
  4. ^ Haru (8 tháng 3 năm 2020). “Hành trình thay đổi cục diện "cuộc chơi" tại Mỹ của những nữ hoàng K-pop mới: Black Pink”. Billboard Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 10 năm 2020.
  5. ^ Carpio, Jillian (16 tháng 6 năm 2020). “Blackpink x fashion: why did Chanel choose Jennie and who got Rosé?”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  6. ^ Daly, Rhian (4 tháng 1 năm 2019). “A beginner's guide to Blackpink, the all-singing, all-rapping, all-female K-pop band | NME”. NME Music News, Reviews, Videos, Galleries, Tickets and Blogs | NME.COM (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  7. ^ Hui-ling, Chew (28 tháng 9 năm 2016). Teo, Johanna (biên tập). “The Breakout Kids”. Teenage Magazine (bằng tiếng Anh). Singapore: Key Editions Pte Ltd (334): 48–49. ISSN 0219-9645. OCLC 224927719. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ Mi-hyun, Lee (8 tháng 8 năm 2016). “[블랙핑크 데뷔②] 블랙핑크 입덕 준비 끝…괴물 신인 스포일러”. Ilgan Sports (bằng tiếng Hàn). South Korea: JTBC Plus. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2016.
  9. ^ a b Quỳnh Trang (29 tháng 9 năm 2020). “Những bí mật về Jisoo Blackpink mà không phải BLINK nào cũng biết”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  10. ^ yenhi (23 tháng 4 năm 2020). “Gia đình "cực phẩm" của Jisoo: Anh trai, chị gái như minh tinh, cháu gái đã là model nhí”. Thể thao & Văn Hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  11. ^ Trần Bảo Vy. “Nhan sắc anh trai Jisoo (BLACKPINK) khiến dân tình rần rần: 'Gia đình gen trội là đây chứ đâu'”. V. O. H. Online. Đài tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  12. ^ Hải Minh (15 tháng 9 năm 2020). “Chân dung anh trai có ngoại hình cực phẩm của Jisoo (Blackpink)”. laodong.vn. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  13. ^ General, Ryan (20 tháng 1 năm 2020). “BLACKPINK Jisoo's Older Sister Stuns the Internet With Family's 'Superior' Genes”. NextShark (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  14. ^ Trần Bảo Vy. “Chị gái xinh đẹp của Jisoo lại khiến dân tình xốn xang trước visual cực phẩm”. V. O. H. Online. Đài tiếng nói nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  15. ^ Khuyết Danh (21 tháng 6 năm 2016). “超级女团日本行程过半 探班AKB48聊不停”. ent.sina.com.cn (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  16. ^ Hải Minh (21 tháng 9 năm 2020). “Sự thật về gia thế quyền lực của Jisoo (Blackpink) khiến fan ngỡ ngàng”. Lao Động. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  17. ^ a b Chan, Cherie (26 tháng 9 năm 2020). “Blackpink Jisoo連素顏都超美!身高162cm金智秀7招「女友風」休閒穿搭術”. www.elle.com.hk (bằng tiếng Trung). ELLE HK. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  18. ^ Quỳnh Mai (20 tháng 5 năm 2018). “Chặng đường biến Black Pink là ngôi sao thế hệ mới của nhà YG”. IONE.NET. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  19. ^ “人紅就說被整容,一張童年照足以證明天然美女的誕生~” (bằng tiếng Trung). kknews.cc. 7 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  20. ^ Bee (24 tháng 6 năm 2020). “Ji Soo: Ngày bé 'thường thường', lớn lên hóa 'nữ thần sắc đẹp' (phần 1)”. IONE.NET. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  21. ^ Minh Anh (27 tháng 11 năm 2019). “Jisoo Blackpink tiết lộ từng được 'đối thủ' của YG đề nghị làm thực tập sinh”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  22. ^ “8 songs BLACKPINK appeared on before debut”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). 8 tháng 8 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.
  23. ^ Network, The Korea Herald/Asia News (9 tháng 8 năm 2016). “Meet K-pop's newest girl band Black Pink”. Philippine Daily Inquirer (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.
  24. ^ “YG 신인 걸그룹 김지수, 데뷔 전부터 이민호와 CF모델 발탁”. Ten Asia (bằng tiếng Hàn). 16 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  25. ^ “Kim JISOO & iKON & Chosen as School Uniform models 'Smart Uniform'”. Blackpink YG (bằng tiếng Anh). 25 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  26. ^ “iKON Together with YG's Kim Jisoo Became New Commercial Models for LG Smart Phones”. YG United (bằng tiếng Anh). 24 tháng 3 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2019.
  27. ^ “Small but strong... Nikon announces Nikon 1 J5 lens interchangeable camera”. The Korea Herald (bằng tiếng Hàn). 2 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2019.
  28. ^ Tabanera, Lily Grace (19 tháng 9 năm 2020). “We Can't Get Over ~Rookie~ Jisoo's Adorable Cameo In 'The Producers'” (bằng tiếng Anh). Cosmopolitan. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  29. ^ '아스달 연대기' 측 "블랙핑크 지수 출연, 역할 방송통해 확인 부탁"(공식입장)”. Newsen (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  30. ^ Minibon (9 tháng 8 năm 2016). “Choáng ngợp với dàn khách mời "trong mơ" của loạt phim Hàn”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  31. ^ Casaus, Sara (9 tháng 9 năm 2020). “Get to know the BLACKPINK members: New Netflix documentary”. Film Daily (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  32. ^ Hằng Hà (8 tháng 8 năm 2020). “BlackPink kỷ niệm 4 năm thành lập nhóm”. Báo Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  33. ^ “Girlgroup thay thế 2NE1, Black Pink, tung MV ra mắt "BOOMBAYAH"”. Thể thao & Văn Hóa. Thông tấn xã Việt Nam. 8 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  34. ^ Thiên Phúc (16 tháng 6 năm 2020). “BLACKPINK chính thức ra mắt hình ảnh teaser mới đầy bí ẩn”. PLO. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  35. ^ “YG新人女团BLACK PINK横扫韩国音乐榜冠军”. ent.sina.com.cn (bằng tiếng Trung). 9 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  36. ^ "Boombayah" của Black Pink cán mốc 800 triệu view”. world.kbs.co.kr. 25 tháng 2 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  37. ^ “BLACKPINK14日将出演《人气歌谣》 献出道舞台_娱乐_腾讯网”. QQ Entertainment (bằng tiếng Trung). Tencent. 2 tháng 8 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  38. ^ Fin Café (1 tháng 11 năm 2016). “BlackPink 'gây bão' với 2 MV mới trên bảng xếp hạng Kpop”. Báo đất Việt. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  39. ^ “Nhóm nhạc nữ Hàn Quốc đầu tiên ghi danh trên bảng xếp hạng Billboard”. Phụ nữ Việt Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. 28 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  40. ^ 吴婧怡 (2 tháng 2 năm 2017). “珍荣道英JISOO任《人气歌谣》新MC_电视新闻_大众网”. 大众网 (bằng tiếng Trung). Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  41. ^ Quỳnh Mai (7 tháng 2 năm 2017). “Ngoại hình của Ji Soo (Black Pink) trở thành chủ đề hot trên mạng”. iOne.net. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  42. ^ Ent, Y. G. (5 tháng 2 năm 2017). “『人気歌謡』MC JISOO「もっと発展し、頑張っていきたい」”. YG LIFE (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2020.
  43. ^ “블랙핑크, '마지막처럼' MV K팝 그룹 역대 최단시간 1천만뷰 돌파” (bằng tiếng Hàn). Star Daily News. ngày 23 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2017.
  44. ^ “Black Pink shatters the K-pop MV YouTube record for 10 million views”. SBS PopAsia. ngày 23 tháng 6 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2017.
  45. ^ Herman, Tamar (5 tháng 7 năm 2017). “K-Pop Girl Group Blackpink Talks Finding Success with Summery 'As If It's Your Last'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  46. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. gaonchart.co.kr. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
  47. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. gaonchart.co.kr. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
  48. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. gaonchart.co.kr. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2017.
  49. ^ “【レポート】BLACKPINK、武道館で初来日公演「期待に応えられるよう頑張ります!」”. BARKS (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  50. ^ “BLACKPINKが初来日 武道館のファン1.4万人熱狂”. Oricon Music (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  51. ^ “BLACKPINKに武道館1万4千人熱狂!日本活動に意気込みも | 女性自身”. WEB女性自身 (bằng tiếng Nhật). 21 tháng 7 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  52. ^ 뉴시스 (28 tháng 7 năm 2020). “블랙핑크, 첫 정규앨범 10월2일 발매…YG "글로벌 시장 공략"”. www.chosun.com (bằng tiếng Hàn). Chosun Ilbo. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  53. ^ “2017/08/29付 オリコンデイリー CDアルバムランキング”. ORICON NEWS (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2017.
  54. ^ “BLACKPINK「BLACKPINK - EP」を Apple Music で”. iTunes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 8 năm 2017.
  55. ^ Giả Bình (2 tháng 11 năm 2017). “BlackPink xuất hiện cực bất ngờ trong bom tấn Batman sắp ra mắt”. Thể thao & Văn hóa. Thông tấn xã Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  56. ^ Bell, Crystal (17 tháng 11 năm 2017). “We Need To Talk About That K-Pop Moment In Justice League”. MTV News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  57. ^ “Turns out there's going to be a LOT of Black Pink in 'Justice League'”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). 7 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  58. ^ “[BLACKPINK][新闻]171229 《BLACKPINK HOUSE》正式版预告公开 1月6日首播确定!——IDOL新闻”. idol001.com (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  59. ^ “[BLACKPINK][分享]171123 官方宣传来报道 BLACKPINK TV即将来袭!——IDOL新闻”. idol001.com (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  60. ^ Nhật Linh (2 tháng 3 năm 2018). “Những bộ ba MC có ngoại hình đỉnh cao nhất của chương trình âm nhạc Hàn Quốc”. Điện ảnh. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  61. ^ Herman, Tamar. “BlackPink Release 'Square Up' EP Fronted by Sharp-Shooting 'Ddu-Du Ddu-Du' Music Video”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  62. ^ '컴백 D-7' 블랙핑크, 첫 미니앨범 '스퀘어 업' 8일 예판 시작”. Sports World (bằng tiếng korean). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2018.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  63. ^ “국내 대표 음악 차트 가온차트!”. Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
  64. ^ “Lần đầu tiên bán album offline trong sự nghiệp, Black Pink đã tạo nên những kì tích”. Thể thao & Văn Hóa. Thông tấn xã Việt Nam. 21 tháng 6 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  65. ^ Haru (26 tháng 6 năm 2018). “"DDU-DU DDU-DU" của Black Pink tổng tấn công các BXH của Billboard”. Billboard Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  66. ^ Herman, Tamar (25 tháng 6 năm 2018). “BLACKPINK Becomes Highest-Charting K-Pop Girl Group In America With 'Square Up' & 'Ddu-Du Ddu-Du'”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  67. ^ Zellner, Xander (25 tháng 6 năm 2018). “BLACKPINK Makes K-Pop History on Hot 100, Billboard 200 & More With 'DDU-DU DDU-DU'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  68. ^ Hong Dam-young (26 tháng 6 năm 2018). “Black Pink becomes highest charting K-pop girl act on Billboard's Hot 100”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  69. ^ “BLACKPINK、京セラドーム大阪公演でファンからのサプライズに涙!「どうやって準備したんですか?」(M-ON!Press(エムオンプレス))”. Yahoo!ニュース (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2018.
  70. ^ “BLACKPINK are going on their first arena tour”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2019.
  71. ^ “BLACKPINK Will Hold Their First 'Arena Tour' in Japan… in sáu concerts”. YGlife (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2019.
  72. ^ “BLACKPINK、京セラドーム大阪にてツアーファイナル。ファンからのサプライズに涙”. barks.jp (bằng tiếng Nhật). 25 tháng 12 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2019.
  73. ^ “블랙핑크, 레이디 가가 새 앨범 참여…"서로의 팬 되면서 자연스럽게 작업 진행"”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). 23 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  74. ^ 백지은 (23 tháng 4 năm 2020). “[공식] 블랙핑크, 레이디가가 '사워캔디' 컬래버…"서로의 음악팬"”. www.chosun.com (bằng tiếng Hàn). Chosun Ilbo. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  75. ^ “The Dua Lipa x BLACKPINK Collab Is Finally Here”. Spot.ph (bằng tiếng Anh). 19 tháng 10 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  76. ^ Benjamin, Jeff (25 tháng 10 năm 2018). “How Dua Lipa & Blackpink's 'Kiss and Make Up' Hints at a Language-Less Future for Pop Music”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.
  77. ^ Suthima Thongmark (1 tháng 11 năm 2019). “Blackpink will kick off their next world tour in Bangkok in Jan 2019”. Time Out Bangkok. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  78. ^ “YG công bố kế hoạch solo của từng thành viên BLACKPINK và phản ứng hài hước của Knet”. Thể thao & Văn Hóa. Thông tấn xã Việt Nam. 9 tháng 2 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  79. ^ Yonhap (7 tháng 2 năm 2019). “BLACKPINK to appear on CBS talk show hosted by comedian Stephen Colbert”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  80. ^ Herman, Tamar (2 tháng 6 năm 2019). “BLACKPINK to Perform on 'The Late Show'”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  81. ^ 'Billboard' embraces BLACKPINK as its first Korean cover girls”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 4 tháng 3 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  82. ^ Yonhap (1 tháng 3 năm 2019). “BLACKPINK becomes first Korean cover girls for Billboard”. The Korea Herald (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  83. ^ “KILL THIS LOVE - EP by BLACKPINK”. Apple Music (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  84. ^ McIntyre, Hugh (18 tháng 4 năm 2019). “4 Ways Blackpink Is Making History On The U.K. Singles Chart This Week”. Forbes (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  85. ^ Moon, Kat (3 tháng 1 năm 2019). “BLACKPINK to Become First Female K-Pop Group at Coachella”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  86. ^ Real, Evan (1 tháng 3 năm 2019). “Blackpink to Make History as First K-Pop Girl Group to Play Coachella | Hollywood Reporter”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  87. ^ “BLACKPINK make Coachella history”. BBC News (bằng tiếng Anh). 13 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  88. ^ “2PM Nichkhun与BLACKPINK智秀出演电视剧《阿斯达年代记》_韩国娱乐新闻_韩国新闻_韩网”. www.kcrea.cc (bằng tiếng Trung). 11 tháng 6 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  89. ^ Công Nguyễn (11 tháng 6 năm 2019). “Jisoo (BlackPink) đóng phim cùng Song Joong Ki”. VietNamNet. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  90. ^ 蒙曉盈 (23 tháng 6 năm 2019). “Jisoo@BLACKPINK客串《阿斯達年代記》 14秒古裝演出震撼Twitter”. 香港01 (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  91. ^ Thanh Đào 1 (23 tháng 6 năm 2019). “Jisoo (Black Pink) gây sốt khi xuất hiện trong 'Biên niên sử Asadal' cùng Song Joong Ki”. Báo Thanh Niên. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  92. ^ “Kill This Love Japanese Version”. Apple Music. Apple Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2019.
  93. ^ Glasby, Taylor (17 tháng 7 năm 2020). “Im Gespräch mit der größten K-Pop-Girlband der Welt”. Vogue Germany (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  94. ^ “BLACKPINK hit ARIA Top 10 with Lady Gaga's "Sour Candy"”. SBS PopAsia. 8 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2020.
  95. ^ “블랙핑크, 새 단독 리얼리티 론칭…팬들과 적극 소통한다”. Herald Pop (in Korean). 13 tháng 6 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2020.
  96. ^ Agency (2 tháng 7 năm 2020). “Blackpink wins 5 Guinness World Record titles with 'How You Like That' | The Star”. www.thestar.com.my (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  97. ^ Punt, Dominic (30 tháng 6 năm 2020). “BLACKPINK's return sets new YouTube records with How You Like That”. Guinness World Records (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  98. ^ Hiểu Nhân (1 tháng 7 năm 2020). “Blackpink lập kỷ lục Guinness”. vnexpress.net. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  99. ^ “Sau Lisa, các thành viên còn lại của BlackPink đã sẵn sàng cho kế hoạch 'Trung tiến'”. SaoStar.vn. 11 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  100. ^ “Fandom BLACKPINK lục đục nội bộ trước thềm comeback vì YG bất công với Lisa”. YAN. 26 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  101. ^ Hong, Seung-han (4 tháng 8 năm 2020). “블랙핑크, 두번째 신고 8월 28일 발표[공식]”. Sports Seoul (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2020.
  102. ^ Ent, Y. G. “BLACKPINK to Release Second New Single on August… Shocking Collaboration Coming Up”. YG LIFE (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2020.
  103. ^ Llewellyn, Tom (5 tháng 10 năm 2020). “Snowdrop: Release date and plot as Blackpink's Jisoo lands her first K-drama”. HITC (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  104. ^ Tuệ Nhi (24 tháng 8 năm 2020). “Jung Hae In, Kim Hye Yoon hợp tác cùng Jisoo Blackpink trong phim đầu tay”. Tuổi Trẻ Cười. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  105. ^ Trí Anh (24 tháng 8 năm 2020). “Dàn cast của "Snowdrop" khiến fan hài lòng: Jung Hae In sánh đôi cùng Jisoo BLACKPINK”. Chuyên trang Hoa Học Trò - Chuyên trang Hoa Học Trò - Báo điện tử Tiền Phong. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  106. ^ Anna (29 tháng 9 năm 2020). “Black Pink tung tracklist cho "THE ALBUM": Xác nhận sự góp mặt của Cardi B, Jennie và Jisoo tham gia sáng tác”. Billboard Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  107. ^ Lê Anh (30 tháng 9 năm 2020). “BLACKPINK buồn bã, đau khổ vì tình trong teaser MV "Lovesick Girls"”. vov.vn. Đài tiếng nói Việt Nam. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  108. ^ Quỳnh Anh (2 tháng 10 năm 2020). “MV Lovesick Girls (BlackPink): Những thước phim điên loạn, cuồng nhiệt từ 4 cô gái vàng nhà YG, lượt xem trực tuyến gây chú ý”. SaoStar.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  109. ^ Jan, Ivy (7 tháng 10 năm 2020). “BLACKPINK紀錄片將於Netflix播出!出道辛酸讓Rosé潸然淚下、全員觀看預告反應超逗趣”. Harper's BAZAAR Taiwan (bằng tiếng Trung). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  110. ^ Langford, Jackson (9 tháng 9 năm 2020). “BLACKPINK announce new Netflix documentary 'Light Up The Sky'”. NME.COM (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  111. ^ Bravo Team (9 tháng 9 năm 2020). “Netflix: Doku "BLACKPINK: Light Up The Sky" erscheint im Oktober”. www.bravo.de (bằng tiếng Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  112. ^ Rowley, Glenn (6 tháng 10 năm 2020). “Watch Blackpink 'Light Up the Sky' in First Trailer For Netflix Documentary”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  113. ^ “2018년 올해를 빛낸 가수와 가요 - 최근 12년간 추이 포함” (bằng tiếng Hàn). Gallup Korea. 30 tháng 11 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  114. ^ Hicap, Jonathan (26 tháng 12 năm 2018). “Gallup Korea names favorite singers, songs in 2018”. Manila Bulletin (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  115. ^ “Blackpink's Lisa most followed K-pop idol on Instagram”. The Straits Times (bằng tiếng Anh). 17 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  116. ^ An Nhiên (23 tháng 9 năm 2020). “4 cô gái BlackPink có lượt theo dõi cao nhất trên Instagram”. laodongtre.laodong.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  117. ^ “Sana de Twice es elegida la cantante más popular por los soldados de Corea del Sur”. La República (bằng tiếng Tây Ban Nha). 10 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2019. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  118. ^ “Jisoo”. The Business of Fashion (bằng tiếng Anh). 30 tháng 9 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  119. ^ Khan, Rimsha (30 tháng 9 năm 2019). “BLACKPINK Jisoo listed as a model on 'Business of fashion 500'”. The Women Journal (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  120. ^ Trí Tú (1 tháng 10 năm 2019). “Không phải Jennie, đây mới là thành viên BlackPink duy nhất lọt top 500 người có ảnh hưởng về thời trang trên thế giới”. SaoStar.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  121. ^ “Beauty Celebs, Influencers Keep Engaging Better Than Brands on Social Media”. Women's Wear Daily (bằng tiếng Anh). 30 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  122. ^ “Beauty, Kylie Jenner, and Rihanna are the biggest influencers”. Oicanadian (bằng tiếng Anh). 6 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  123. ^ Bee (21 tháng 6 năm 2020). “Ji Soo đẹp đỉnh cao, Jennie gây cười trong teaser comeback”. iOne.net. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  124. ^ Abelman, Devon (20 tháng 6 năm 2020). “Blackpink's Makeup Artist Shares Stories Behind the Beloved Looks in the "How You Like That" Music Video”. www.yahoo.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  125. ^ “점만 잘 찍어도!”. Marie Claire Korea (bằng tiếng Hàn). 15 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  126. ^ “Blackpink's Makeup Artist Shares Stories Behind the Beloved Looks in the "How You Like That" Music Video”. Allure (bằng tiếng Anh). 20 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  127. ^ Pratiwi, Yunia (23 tháng 7 năm 2020). “Di Balik Proses Kreatif Makeup How You Like That Blackpink”. Tempo (bằng tiếng Indonesia). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  128. ^ Su Kem (2 tháng 7 năm 2020). “Tưởng lấy lòng được Knet, BLACKPINK vẫn bị chỉ trích vì diện hanbok "lai Trung Quốc"”. YAN. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  129. ^ Đình Dy (24 tháng 6 năm 2020). “"How you like that" của Blackpink gây sốt với tạo hình mới lạ đến từ Jisoo”. laodong.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  130. ^ “BlackPink mặc hanbok cách tân, trang điểm lạ trong MV mới”. Zing News. 26 tháng 6 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  131. ^ Quỳnh Trang (27 tháng 6 năm 2020). “Blackpink. How You Like That. Jennie. Rosé. How You Like That Blackpink”. thethaovanhoa.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  132. ^ “Nike ist die weltweit sichtbarste Twitter-Marke”. W&V (bằng tiếng Đức). 16 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  133. ^ “Blackpink's Jisoo and Lisa, Meghan Markle, Priyanka Chopra and Beyoncé all love Self-Portrait – 6 things to know about the Malaysian designer Han Chong”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). 20 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  134. ^ “[브랜드평판] 걸그룹 개인 브랜드 2020년 9월 빅데이터 분석결과... 1위 블랙핑크 지수, 2위 오마이걸 유아, 3위 블랙핑크 제니”. Future Korea (bằng tiếng Hàn). 20 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  135. ^ “Dior grows rapidly to threaten Chanel, Hermes here”. The Korea Times (bằng tiếng Anh). 28 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  136. ^ “The Mega-Influencer Is Here to Stay”. Women's Wear Daily (bằng tiếng Anh). 4 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2020.
  137. ^ “Liza Soberano Channeled BLACKPINK Jisoo For This Look—We're Obsessed!”. METRO style (bằng tiếng Anh). 8 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2020.
  138. ^ “PRESENTS: I-MAGAZINE FASHION FACE AWARDS 2020 - ASIAN FEMALE”.
  139. ^ Quỳnh Trang (16 tháng 2 năm 2020). “Blackpink đẹp xuất sắc trên tạp chí Vogue Hàn: 'Nàng thơ' của các thương hiệu nổi tiếng”. thethaovanhoa.vn. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 12 tháng 10 năm 2020.
  140. ^ Colón, Ana (17 tháng 9 năm 2020). “Must Read: Blackpink Cover 'Elle,' 'Vogue' Launches New Podcast - Fashionista”. fashionista.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  141. ^ Hoàng Dung (18 tháng 12 năm 2019). “Jisoo Blackpink quyến rũ thuần khiết trên trang bìa Harper's Bazaar”. VietNamNet. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  142. ^ “Jisoo (BlackPink) rạng rỡ trên bìa Marie Claire tháng 9, tiết lộ lịch trình bận rộn”. SaoStar.vn. 18 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  143. ^ “BLACKPINK share what pastimes make them happy”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). 17 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  144. ^ Minie (4 tháng 9 năm 2020). “So kè thần thái của 4 thành viên Black Pink trên bìa tạp chí”. iOne.net. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  145. ^ '블랙핑크' 지수, 디올 뷰티 로컬 앰버서더로 발탁”. Star Daily News (bằng tiếng Hàn). 18 tháng 12 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2020.
  146. ^ “디올의 뮤즈 지수, 청량한 여름을 닮은”. Elle Korea (bằng tiếng Hàn). 3 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2020.
  147. ^ “Check Out Jisoo From BLACKPINK Clad In All Dior—We're Obsessed!”. METRO style (bằng tiếng Anh). 25 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2020.
  148. ^ “블랙핑크 지수, 단아+강인한 매력..눈부신 미모[화보]”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). 9 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2020.
  149. ^ “세계를 매료시킨 '지수다움'의 정의, <데이즈드>와 지수의 첫 만남을 통해 그 깊고도 새로운 서막이 시작됐다”. Dazed Korea (bằng tiếng Hàn). 9 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2020.
  150. ^ Thu Trà (30 tháng 9 năm 2020). “Jisoo được hãng Dior đặc biệt ưu ái trên mạng”. Zing News. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2020.
  151. ^ “블랙핑크 지수, 디올 '21SS 레디투웨어' 패션쇼 韓대표 참석”. Single List (bằng tiếng Hàn). 9 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  152. ^ “Dior Spring/Summer 2021 Show Was A Divine Affair”. L'Officiel Baltics (bằng tiếng Anh). 3 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  153. ^ 권연수 (11 tháng 9 năm 2020). “블랙핑크 지수, 어떤 각도에서 바라봐도 완벽한 미모”. Digital Chosun Inc (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  154. ^ “블랙핑크 지수의 광채 피부 비결은? 지수의 신상 디올 쿠션 알아보기”. W Korea (bằng tiếng Hàn). 4 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2020.
  155. ^ “Yuk, Berkenalan dengan Tas Dior Caro Favorit Jisoo dan Bae Suzy”. Cosmopolitan Indonesia (bằng tiếng Indonesia). 24 tháng 2 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2021.
  156. ^ “디올(Dior) 뮤즈, 블랙핑크 지수의 고혹적 패션 화보”. MNEWS (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2021.
  157. ^ “디올 화보서 흑발 휘날리며 물오른 여신 미모 과시한 블랙핑크 지수”. Insight Korea (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2021.
  158. ^ “Blackpink Member Jisoo is Dior's New Fashion and Beauty Ambassador”. Women's Wear Daily (bằng tiếng Anh). 6 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2021.
  159. ^ Vacco-Bolaños, Jessica (27 tháng 10 năm 2019). “7 Things You Need To Know About BLACKPINK's Jisoo”. Elite Daily (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  160. ^ Choi Ha Rin (27 tháng 9 năm 2020). “Blackpink before the fame: the origins of Jennie, Rosé, Lisa and Jisoo”. South China Morning Post (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2020.
  161. ^ Moon, Kat (3 tháng 4 năm 2019). “Everything to Know About K-Pop Group BLACKPINK”. Time (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2020.
  162. ^ Hải Âu (14 tháng 2 năm 2019). “Không thể nói tiếng Anh và im lặng suốt buổi phỏng vấn, Jisoo bị CĐM quốc tế chỉ trích”. Yeah1 Music - Kênh Thông tin Giải Trí, Âm nhạc Dành Cho Giới Trẻ. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  163. ^ Thùy Dung (26 tháng 1 năm 2020). “Jisoo - Nàng Ma Kết bản lĩnh của BlackPink”. Tạp chí Phái đẹp ELLE. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  164. ^ “인간 명품'으로 등극한 스타 3 | 엘르코리아”. Herald Pop (bằng tiếng Hàn). 29 tháng 9 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 29 tháng 9 năm 2020.
  165. ^ “YG 김지수, 걸그룹 데뷔 전 '프로듀사' 출연 '눈도장'”. Naver News (bằng tiếng Hàn). 24 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  166. ^ a b LR, Redacción (19 tháng 8 năm 2020). “Jisoo de BLACKPINK confirmada como protagonista del nuevo dorama Snowdrop”. larepublica.pe (bằng tiếng Tây Ban Nha). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  167. ^ Naver News (10 tháng 6 năm 2019). “'아스달 연대기' 측 "블랙핑크 지수 출연, 역할 방송통해 확인 부탁"(공식입장)”. n.news.naver.com (bằng tiếng Hàn). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  168. ^ “[공식] 정해인X블랙핑크 지수, JTBC '설강화' 캐스팅 확정…내년 방송 예정”. Sports Chosun (bằng tiếng Hàn). 5 tháng 10 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2020.
  169. ^ a b “8 songs BLACKPINK appeared on before debut”. SBS PopAsia (bằng tiếng Anh). 8 tháng 8 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  170. ^ a b Network, The Korea Herald/Asia News (9 tháng 8 năm 2016). “Meet K-pop's newest girl band Black Pink”. inquirer.net (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2020.
  171. ^ “微博星耀盛典”. Weibo (bằng tiếng Trung). 29 tháng 4 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2021.
  172. ^ “팬앤스타 초이스 개인” [Fan N Star Choice Award – Individual]. The Fact Music Awards (bằng tiếng Hàn). 9 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2021.

  • Jisoo trên Instagram
  • Jisoo trên Sina Weibo
  • Jisoo trên Internet Movie Database

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Jisoo&oldid=68176880”


Page 2

2NE1 (tiếng Triều Tiên: 투애니원) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập bởi YG Entertainment vào năm 2009. Nhóm bao gồm 4 thành viên: Bom, CL, Dara, và Minzy. Sau khi xuất hiện cùng nhóm nhạc nam Big Bang trong đĩa đơn quảng cáo "Lollipop", nhóm đã trở nên nổi tiếng với việc phát hành mini album cùng tên 2NE1 (2009) và 2NE1 (2011) và các album phòng thu, To Anyone (2010) và Crush (2014); tất cả đều đạt vị trí cao nhất trên ở hai vị trí hàng đầu trên Gaon Album Chart. Nhóm cũng đã tích lũy 9 đĩa đơn quán quân trên Gaon Digital Chart, bao gồm "Go Away", "Lonely", "I Am the Best", "I Love You" và "Come Back Home".

Người yêu của jisoo là ai
2NE1

2NE1 vào năm 2013.
Từ trái sang phải: Dara, Bom, Minzy và CL

Thông tin nghệ sĩNguyên quánSeoul, Hàn QuốcDòng nhạc

  • K-pop
  • hip hop
  • R&B
  • dance-pop
  • electropop

Năm hoạt động2009 (2009)–2016 (2016)[1]Hãng đĩa

  • YG
  • Avex Group
  • Warner Music
  • Capitol
  • School Boy

Hợp tác với

  • Teddy
  • Big Bang
  • YG Family

Cựu thành viên
  • Bom
  • Dara
  • CL
  • Minzy

Bài hát chủ đề trong mini album đầu tay của nhóm, "Fire" và "I Don't Care", ngay lập tức đưa nhóm đến với sự chú ý trên toàn quốc, cả hai đĩa đơn đều đạt được nhiều thành công ở Hàn Quốc và các khu vực khác của châu Á. "I Don't Care" nhận được giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009, đưa nhóm trở thành nhóm nhạc đầu tiên giành được Daesang trong cùng năm ra mắt. Nhóm tiếp tục thành công với album phòng thu đầu tiên To Anyone và mini album thứ hai năm 2011, sản phẩm thứ hai trong số đó đã tạo ra 4 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng, "Don't Cry", "Lonely", "I Am the Best" và "Ugly". Sau đĩa đơn "I Love You" năm 2012, nhóm bắt đầu chuyến lưu diễn New Evolution Global Tour, đã dừng chân tại 11 thành phố ở 7 quốc gia của châu Á và Bắc Mỹ, đồng thời đặt một cột mốc quan trọng trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc khi trở thành chuyến lưu diễn thế giới đầu tiên của một nhóm nhạc nữ K-pop.[2] Album phòng thu cuối cùng Crush của nhóm vào năm 2014 đã trở thành album K-pop có vị trí cao nhất trên Billboard 200 trong hơn 2 năm, đạt vị trí số 61.[3]

Bộ tứ cũng tiến hành sự nghiệp song song ở Nhật Bản, lần đầu tiên phát hành phiên bản tiếng Nhật của mini album thứ hai Nolza (2011), tiếp theo là album phòng thu Collection (2012) và phiên bản tiếng Nhật của Crush (2014). Sau một thời gian dài gián đoạn, Minzy rời nhóm vào tháng 4 năm 2016,[4] trong khi nhóm tan rã cùng với các thành viên còn lại vào tháng 11 năm đó.[1] Đĩa đơn cuối cùng "Goodbye" của nhóm được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2017.[5]

Được biết đến với phong cách thời trang độc đáo, khả năng xuất hiện trên sân khấu và thần thái, 2NE1 được coi là một trong những nhóm nhạc nữ Hàn Quốc thành công và nổi tiếng nhất trong suốt sự nghiệp của nhóm.[6][7][8] Theo báo cáo, nhóm đã bán được 66,5 triệu bản đĩa, giúp 2NE1 trở thành một trong những nhóm nhạc nữ bán chạy nhất mọi thời đại.[9][10] Tạp chí Billboard đã xếp hạng 2NE1 là một trong những nhóm nhạc nữ K-pop xuất sắc nhất thập kỷ qua,[7] trong khi The New York Times bình chọn chuyến lưu diễn thế giới New Evolution Global Tour của 2NE1 dừng chân tại Prudential Center ở New Jersey là một trong những "Buổi hòa nhạc xuất sắc nhất năm 2012".[11]

 

2NE1 tại Asia Song Festival lần thứ 6 vào năm 2009.

Đầu năm 2009, YG Entertainment thông báo rằng một nhóm nhạc nữ bao gồm 4 thành viên sẽ ra mắt vào tháng 5 năm đó.[12] Công ty tuyên bố rằng nhóm đã được đào tạo trong 4 năm và album đầu tay của họ sẽ có các bài hát do cựu trưởng nhóm Teddy Park của 1TYM sản xuất.[12][13][14] Tên của nhóm ban đầu được công bố là "21" nhưng do phát hiện ra một ca sĩ trùng tên, nhóm nhanh chóng được đổi tên thành "2NE1".[15] Tên "2NE1" của nhóm là từ viết tắt của "New Evolution of The 21 Century" và có cách phát âm trong tiếng Hàn gần giống với cụm từ tiếng Anh là "To Anyone" hoặc "Twenty One".[16] Vào năm 2015, có thông tin tiết lộ rằng trước khi thành lập nhóm, Bohyung của Spica và Linzy của Fiestar từng được đào tạo để trở thành những thành viên của nhóm, nhưng đã bị loại khỏi đội hình trước khi ra mắt.[17]

Mini album đầu tiên 2NE1 (2009) của 2NE1 có 2 đĩa đơn đã được phát hành trước đó, trong đó đĩa đơn đầu tiên, "Lollipop", được thu âm với nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang và phát hành vào ngày 27 tháng 3 năm 2009, để quảng cáo cho điện thoại LG Cyon.[18] Mặc dù đã ghi hình một video âm nhạc,[19] "Lollipop" đã không được quảng bá và điều này đã gây ra vấn đề với tính đủ điều kiện của bảng xếp hạng.[20] Đĩa đơn thứ hai, "Fire", được viết và sản xuất bởi Teddy Park của 1TYM.[21] Nó được phát hành vào tháng 5 và bao gồm các yếu tố của hip hop và reggae.[22] Hai phiên bản cho video âm nhạc của "Fire" đã được sản xuất — một phiên bản "space" và một phiên bản "street".[23] Trong vòng 24 giờ đầu tiên phát hành, cả hai video đã đạt được hơn 1 triệu lượt xem.[24] Bài hát "Fire" và "2NE1" cũng đã trở thành cụm từ tìm kiếm trực tuyến phổ biến.[25] Đĩa đơn cuối cùng, "I Don't Care", được phát hành cùng với mini album cùng tên đầu tiên của nhóm vào tháng 7.[26] Các hoạt động quảng bá đã nhanh chóng được diễn ra ngay sau đó để thể hiện hình ảnh mềm mại, nữ tính hơn của nhóm, đối lập với hình ảnh sắc sảo được miêu tả trước đó trong "Fire".[26][27] "I Don't Care" đã trở thành bài hát được tải xuống nhiều nhất trong tháng đó, sau đó giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2019.[28][29]

 

2NE1 ghi hình cho video âm nhạc của "Can't Nobody" vào năm 2010.

Mặc dù các thành viên trong nhóm đã thu âm và phát hành sản phẩm solo của riêng họ vào tháng 8, nhưng 2NE1 đã trình diễn phiên bản reggae của "I Don't Care" trên Inkigayo vào tháng 9;[30] phiên bản reggae trở nên phổ biến và nó được phát hành vào ngày 3 tháng 9 dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số.[30] Được thúc đẩy bởi sự thành công của các đĩa đơn của nhóm, doanh số của 2NE1 đã đạt 100,000 bản vào cuối năm.[31] 2NE1 sau đó đã biểu diễn tại Asia Song Festival, lần thứ 6, đại diện cho Hàn Quốc cùng với ba nhóm nhạc khác và giành được giải thưởng Tân binh châu Á xuất sắc nhất.[32]

Vào tháng 2 năm 2010, 2NE1 phát hành "Try to Follow Me" dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số để quảng cáo cho điện thoại di động Samsung Corby với không thông báo trước hoặc quảng bá.[33] Bài hát đạt vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart.[34] Vào giữa năm 2010, 2NE1 đã đến Los Angeles và London để thu âm các bài hát tiếng Anh cho album tiếng Anh đầu tay của nhóm với nhà sản xuất âm nhạc will.i.am của The Black Eyed Peas. Nhóm đã thu âm 10 bài hát trong những buổi thu âm đầu tiên của nhóm.[35] Vào tháng 9 năm đó, nhóm đã phát hành album phòng thu đầu tiên To Anyone, ra mắt ở vị trí số 7 trên bảng xếp hạng album thế giới của Billboard.[36] Trước khi phát hành, album đã nhận được 120,000 bản đặt trước.[37] 4 trong số 12 bài hát của To Anyone đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn; top 5 bản hit "Clap Your Hands", "Can't Nobody", "It Hurts (Slow)" và "Go Away".[38][39][40] Bài hát thứ năm có tên "Don't Stop the Music" đã được thu âm như một "món quà đặc biệt dành cho người hâm mộ Thái Lan" và cũng được sử dụng để quảng bá cho hợp đồng quảng cáo Yamaha Fiore của nhóm.[41] Tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, 2NE1 đã giành được nhiều giải thưởng danh giá nhất trong số các nhóm nhạc tham dự lễ trao giải tối hôm đó, bao gồm "Nghệ sĩ của năm", "Video âm nhạc xuất sắc nhất" cho "Can't Nobody", "Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất" và giải "Album của năm".[42][43][44]

2011–2012: Ra mắt tại Nhật Bản, đột phá và chuyến lưu diễn đầu tiên

Vào ngày 19 tháng 1 năm 2011, "Can't Nobody (phiên bản tiếng Anh)" được phát hành trên nhà bán lẻ kỹ thuật số Nhật Bản Recochoku dưới dạng nhạc chuông và nhạc chờ.[45] Tháng sau, một video âm nhạc đi kèm đã có sẵn để tải xuống thông qua iTunes Nhật Bản. Đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay "Go Away" của nhóm được phát hành dưới dạng nhạc chuông vào ngày 9 tháng 3,[46] và sau đó được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Nhật Bản Mezamashi TV.[47] Vào ngày 16 tháng 3, Mini album tiếng Hàn đầu tiên của 2NE1 đã có sẵn tại Nhật Bản; các hoạt động quảng bá đã bị hủy bỏ do trận động đất và sóng thần Tōhoku.[48] 2NE1 ra mắt ở vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng Oricon, bán được 3,860 bản trong tuần đầu tiên phát hành.[49] Kế hoạch ban đầu cho việc ra mắt chính thức tại Nhật Bản trên chương trình Music Station đã bị hoãn lại cho đến cuối năm đó do trận động đất,[50] mặc dù nhóm đã tham gia chiến dịch "Pray for Japan" của Naver cùng với những người nổi tiếng Hàn Quốc khác để gây quỹ cho các nạn nhân động đất.[51]

 

2NE1 tại một sự kiện của Nikon vào năm 2011.

Nhóm trở lại Hàn Quốc và phát hành mini album thứ hai 2NE1 (2011), mang đến những bản hit quán quân "Lonely", "I Am the Best" — đồng thời giành giải "Bài hát của năm" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011 — và "Ugly", cũng như bản hit "Hate You".[52][53] Bản thân mini album đã là một thành công lớn, đứng đầu bảng xếp hạng Gaon và bán được hơn 108,000 bản.[54] Spin Magazine đã xếp hạng mini album là album nhạc pop xuất sắc nhất thứ sáu của năm 2011, xếp trên Coldplay, Ellie Goulding và Rihanna.[55] Sau khi kết thúc các đợt quảng bá vào tháng 8, 2NE1 đã tổ chức buổi hòa nhạc riêng đầu tiên bán cháy vé tại Olympic Hall ở Chamsil Olympic Park, Seoul, vào ngày 26, 27 và 28 tháng 8 trước khi bay về Nhật Bản.

Nhóm đã thu âm lại mini album thứ hai 2NE1 (2011) bằng tiếng Nhật; được tái phát hành với tên Nolza cùng năm, đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon và bán được hơn 48,000 bản.[56] Các phiên bản tiếng Nhật của "I Am the Best", "Hate You", "Go Away" và "Lonely" đã được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Nhóm cũng bắt đầu chuyến lưu diễn Nhật Bản đầu tiên 2NE1 First Japan Tour – Nolza vào ngày 19 và 20 tháng 9 tại Yokohama Arena. That October, Tháng 10 năm đó, Iggy của MTV đã tổ chức một cuộc thi toàn cầu, trong đó 10 nhóm nhạc từ khắp nơi trên thế giới tranh tài trong một cuộc thi bình chọn cho danh hiệu "Nhóm nhạc mới xuất sắc nhất".[57] Với bài hát "I Am the Best", 2NE1 đã được trao danh hiệu này vào ngày 10 tháng 11 năm 2011, đây là giải thưởng đầu tiên của nhóm tại Hoa Kỳ.[58] 2NE1 đã biểu diễn tại Quảng trường Thời đại của thành phố New York vào tháng 12 để nhận vinh dự này. Cuối năm 2011, 2NE1 được đề cử tại Japan Record Awards cho "Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất", thua nhóm nhạc nữ Nhật Bản Fairies.[59][60]

 

2NE1 tại YouTube K-pop Awards vào tháng 11 năm 2011.

Vào ngày 28 tháng 3 năm 2012, 2NE1 phát hành album phòng thu tiếng Nhật đầu tiên Collection cùng với đĩa đơn tiếng Nhật thứ hai "Scream". Album bao gồm các phiên bản tiếng Nhật của các bài hát tiếng Hàn của nhóm như "Love Is Ouch", "Fire" và "I Don't Care" và cover bản hit "Like A Virgin" năm 1984 của Madonna. Nhiều phiên bản của album đã được phát hành, một số phiên bản bao gồm một DVD chứa các video âm nhạc tiếng Nhật và tiếng Hàn của nhóm, theo trang web âm nhạc của Oricon. Album đạt vị trí số 5 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon và tiếp tục bán được hơn 32,000 bản tại Nhật Bản.[56][61]

Cuối năm đó, 2NE1 và nhóm nhạc nam cùng công ty Big Bang được mời biểu diễn lần đầu tiên tại lễ hội Springroove năm 2012 ở Nhật Bản cùng với một số nghệ sĩ hip hop hàng đầu của Hoa Kỳ và Nhật Bản. 2NE1 và nhóm nhỏ GD & TOP đã được mời biểu diễn tại lễ hội vào năm trước nhưng nó đã bị hủy bỏ do thảm kịch động đất và sóng thần ở Nhật Bản.[62] 2NE1 cũng hợp tác với nhóm nhạc hip hop Nhật Bản M-Flo cho bài hát "She's So (Outta Control)", nằm trong album phòng thu thứ sáu Square One của M-Flo. "She's So (Outta Control)" được phát hành với tư cách là bài hát mở đường trong album trong hai tuần trước khi phát hành vào ngày 29 tháng 2 năm 2012.[63] "She's So (Outta Control)" đạt vị trí số 43 trên bảng xếp hạng Billboard Japan Hot 100.[64] Nhóm đã kết thúc các hoạt động quảng bá tại Nhật Bản bằng việc biểu diễn tại lễ trao giải MTV Video Music Awards Japan năm 2012, diễn ra vào ngày 23 tháng 6 tại Makuhari Messe, nơi 2NE1 đã giành được giải thưởng "Nghệ sĩ mới có video xuất sắc nhất" cho bài hát "I Am the Best".[65] Đĩa đơn ngoài album "I Love You" đã được phát hành tại quê nhà của nhóm, đứng đầu bảng xếp hạng và trở thành đĩa đơn quán quân thứ sáu của nhóm.[66] Tháng 12 năm đó, 2NE1 và Big Bang được xếp trong danh sách "Nhóm nhạc có phong cách xuất sắc nhất năm 2012" của MTV Style; hai nhóm nhạc của YG Entertainment là những nghệ sĩ châu Á duy nhất góp mặt trong danh sách xếp hạng 10 nhóm nhạc, bao gồm One Direction, The Wanted, Backstreet Boys, Spice Girls, Destiny's Child, Fun và No Doubt.[67]

2013–2014: Hợp tác, thành công toàn cầu và chuyến lưu diễn thế giới

 

Hologram của 2NE1 tại Everland vào năm 2013.

Vào ngày 14 tháng 3 năm 2013, 2NE1 phát hành đĩa đơn tiếng Anh "Take the World On", đây là sản phẩm hợp tác với ca sĩ người Mỹ will.i.am. Bài hát trước đây đã được sử dụng trong một quảng cáo cho máy tính Intel Ultrabook.[68][69] Vào ngày 21 tháng 3, trong một cuộc phỏng vấn với Elle, CL xác nhận nhóm vẫn chưa lên kế hoạch cho một album ở Hoa Kỳ nhưng muốn sản xuất thêm nhiều bài hát bằng tiếng Anh.[70] Nhóm đã hợp tác với will.i.am lần thứ hai cho đĩa đơn "Gettin' Dumb", bao gồm apl.de.ap, người bạn cùng nhóm của anh. Bài hát xuất hiện trong album thứ hai #willpower của will.i.am, được phát hành vào ngày 23 tháng 4 năm 2013.[71] Các đĩa đơn tiếp theo của 2NE1 được phát hành như đĩa đơn riêng lẻ và không gắn liền với một album, "Falling in Love" và "Missing You" trở thành đĩa đơn quán quân thứ bảy và thứ tám của nhóm. Đĩa đơn thứ ba ngoài album, "Do You Love Me", là bản hit top 3 của nhóm.[72]

"Đối với album này, chúng tôi đã tự giam mình rất nhiều trong phòng thu và cống hiến 100%. Chúng tôi cũng đã trưởng thành rất nhiều với tư cách là phụ nữ kể từ album đầu tiên và bạn sẽ có thể nghe thấy điều đó trong bản thu âm này. Ngoài ra, vì tôi đã viết rất nhiều bản nhạc, nó thậm chí còn mang tính cá nhân hơn đối với nhóm so với những bản thu âm trước đây của chúng tôi."

– CL thảo luận về âm nhạc từ album phòng thu tiếng Hàn thứ hai Crush của nhóm.[73]

Vào tháng 1 năm 2014, 2NE1 xuất hiện trong một tập của chương trình The Bachelor và sau đó xuất hiện trong đêm chung kết của America's Next Top Model, được ghi hình tại Hàn Quốc.[74][75] Tháng sau, 2NE1 phát hành album phòng thu thứ hai Crush (2014).[76][77] Đĩa đơn "Come Back Home" và "Happy" đồng thời được phát hành; "Come Back Home" đạt vị trí số 1 trên Gaon Singles Chart, trở thành bản hit quán quân thứ chín của nhóm.[78] Đĩa đơn thứ ba của nhóm trong album, "Gotta Be You", được phát hành cùng với một video âm nhạc vào ngày 20 tháng 5. Crush đã bán được 5,000 bản trong 4 ngày ở Hoa Kỳ, đạt vị trí số 1 trên Billboard 200 và lập kỷ lục mới tại Hoa Kỳ cho "Album K-pop xếp hạng cao nhất và bán chạy nhất", đánh bại Girls' Generation và Big Bang.[79] Vào ngày 26 tháng 6 năm 2014, 2NE1 phát hành phiên bản tiếng Nhật của Crush, đứng ở vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng album hàng ngày của Oricon.[61]

 

Chuyến lưu diễn thế giới All Or Nothing World Tour ở Singapore.

Sau khi phát hành Crush, nhóm đã tổ chức All Or Nothing World Tour, bao gồm các điểm dừng tại Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Thái Lan, Philippines, Nhật Bản, Malaysia và Indonesia. Từ tháng 3 đến tháng 10, nhóm đã tổ chức 20 buổi hòa nhạc trên 16 thành phố, với tổng cộng 180,000 người tham dự.[80][81][82]

Đĩa đơn "I Am The Best" năm 2011 của 2NE1, được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 12 bởi Capitol Records. Vào ngày 18 tháng 12, MTV Iggy đã trao giải "Bài hát của năm" cho "Gotta Be You".[83] Nhóm đã nhận được sự công nhận trên toàn thế giới vào cuối năm 2014; Crush là kỷ lục duy nhất của một nghệ sĩ châu Á được vinh danh trong danh sách "40 album xuất sắc nhất năm 2014" của Fuse TV",[84] và đứng đầu trong danh sách "album K-pop xuất sắc nhất năm 2014" của tạp chí Billboard.[85] Album cũng đứng ở vị trí số 11 trên bảng xếp hạng World Album cuối năm của Billboard, trở thành lần ra mắt đầu tiên của một nhóm nhạc K-pop trong lịch sử bảng xếp hạng.[86][87]

2015–2017: Hoạt động solo, Minzy rời nhóm và tan rã

Sau khi Bom gián đoạn sự nghiệp do vụ bê bối chất cấm năm 2014, các thành viên khác của 2NE1 bắt đầu rẽ hướng sang các hoạt động cá nhân, khiến nhóm tạm ngừng hoạt động. Dara tái lập sự nghiệp diễn xuất của mình bằng cách đóng vai chính trong các bộ phim truyền hình web như Dr.Ian và We Broke Up, cũng như Missing You của KBS. Minzy đã mở nhómc viện khiêu vũ Millennium Dance Academy.[88] CL bắt đầu sự nghiệp solo tại Hoa Kỳ với việc phát hành đĩa đơn "Hello Bitches". Hoạt động duy nhất của nhóm trong năm 2015 là buổi biểu diễn bất ngờ tại Mnet Asian Music Awards năm 2015 ở Hồng Kông. Sau buổi biểu diễn solo "The Baddest Female" and "Hello Bitches" của CL, tất cả các thành viên của 2NE1 đã tái hợp để biểu diễn "Fire" và "I Am the Best".[89] Buổi biểu diễn đã trở thành buổi biểu diễn MAMA được xem nhiều nhất bởi bất kỳ nhóm nhạc nữ nào. Nó đã được hoan nghênh và kết quả là Fuse đã liệt kê nó là một trong những buổi biểu diễn xuất sắc nhất năm 2015.[90] Mặc dù không trở lại, 2NE1 là nhóm nhạc K-pop được reblog thứ 16 trên Tumblr trong năm 2015,[91] và Spotify đã đề cập đến cả 2NE1 và CL trong chiến dịch "Year in Music" của Twitter vì đạt được hơn 1 triệu người nghe. Nhóm cũng đã giành được chiến thắng tại Korea First Brand Awards năm 2016 của Trung Quốc cho "10 ngôi sao Hàn Quốc được mong đợi nhất năm 2016".[92]

Sau một năm gián đoạn, YG Entertainment xác nhận sự ra đi của Minzy vào tháng 4 năm 2016, tuyên bố nhóm sẽ tiếp tục hoạt động như một bộ ba.[4][93][94] Tuy nhiên, vào cuối tháng 11, công ty đã thông báo về sự tan rã của nhóm. CL và Dara vẫn ký hợp đồng với tư cách nghệ sĩ solo trong khi Bom không gia hạn hợp đồng.[95] Đĩa đơn cuối cùng mang tên "Goodbye" được phát hành vào tháng 1 năm 2017 như một lời tạm biệt dành cho người hâm mộ của nhóm;[5] lấy cảm hứng từ một bức thư CL viết cho Minzy sau khi cô rời nhóm.[96] Bài hát đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard World Digital Songs.[97]

In đậm là nhóm trưởng

Nghệ danh Tên khai sinh Ngày sinh Vai trò Nơi sinh
Latinh Hangul Kana Latinh Hangul Hanja Kana Hán-Việt
Bom ボム Park Bom 박봄 朴春 パク・ボム Phác Xuân 24 tháng 3, 1984 (38 tuổi) Main Vocalist   Seoul, Hàn Quốc
Dara 다라 ダラ Park Sandara 박산다라 朴山達拉 パク・サンダラ Phác Sơn Đạt Lạp 12 tháng 11, 1984 (37 tuổi) Sub Vocalist, Sub Rapper, Visual   Busan, Hàn Quốc
CL 씨엘 シーエル Lee Chae-lin 이채린 李彩麟 イ・チェリン Lý Thái Lân 26 tháng 2, 1991 (31 tuổi) Main Rapper, Lead Vocalist, Lead Dancer, Face of the Group   Seoul, Hàn Quốc
Minzy 민지 ミンジ Gong Min-ji 공민지 孔旻智 コン・ミンジ Khổng Mẫn Trí 18 tháng 1, 1994 (28 tuổi) Main Dancer, Lead Vocalist, Lead Rapper, Maknae

Dòng thời gian hoạt động

Người yêu của jisoo là ai

2NE1 đã thu âm nhiều bài hát R&B với phong cách kết hợp các yếu tố của urban và dance-pop.[98] Trong mini album đầu tay 2NE1 (2009) của 2NE1, nhóm được nhận xét là có phong cách đặc biệt và cá tính. Trong khi "Lollipop" được phân loại là nhạc pop, đĩa đơn đầu tay của nhóm "Fire" chủ yếu chịu ảnh hưởng của hip hop và "I Don't Care" chịu ảnh hưởng của reggae.[99] Album trở lại To Anyone của nhóm được đánh dấu bằng sự chuyển hướng sang nhạc điện tử. "Go Away", đĩa đơn thành công nhất trong album, được xếp vào thể loại nhạc dance,[100] một số bài hát, bao gồm "It Hurts (Slow)", là R&B, một phong cách khác cũng đặc trưng cho mini album đầu tiên của nhóm.[101] Các đĩa đơn "Clap Your Hands", "Go Away" và "Can't Nobody" đã được ghi nhận nhờ những ấn tượng lâu dài của nhóm.[102]

2NE1 đã nhắc đến The Spice Girls và TLC là những nguồn cảm hứng âm nhạc.[103] Mỗi thành viên của nhóm đều được nhận xét là khác biệt về chất giọng, hình ảnh và phong cách thời trang;[104] Park Bom đã nhắc đến nữ ca sĩ người Mỹ Beyoncé và Mariah Carey là những nghệ sĩ có ảnh hưởng chính đến cô vì giọng hát khỏe và biểu diễn đầy nội lực. Cô đã liệt kê hip hop và R&B là thể loại âm nhạc yêu thích của mình.[105] Minzy nhắc đến ca sĩ Michael Jackson và Rihanna,[106] trong khi trưởng nhóm CL nhắc đến nhà sản xuất Teddy Park và nghệ sĩ giải trí người Mỹ Madonna và chọn Lauryn Hill là hình mẫu của cô.[107] Dara nhắc đến nữ ca sĩ kiêm diễn viên Uhm Jung-hwa là nguồn cảm hứng của cô và cô thần tượng Regine Velasquez, một ca sĩ nổi tiếng người Philippines. Dara cũng thích phong cách và âm nhạc của Britney Spears, nhắc đến nữ ca sĩ như là một hình mẫu của những bài hát mà cô thường hát khi lớn lên.[106]

Hình tượng

 

2NE1 tại MTV Daum Music Fest vào năm 2011.

Kể từ khi ra mắt với "Fire" vào năm 2009, 2NE1 đã được biết đến với phong cách của họ, với thần thái và khả năng biểu diễn trên sân khấu.[108] Sau khi phát hành đĩa đơn đầu tay, nhóm đã được biết đến với hình tượng là "hip hop" và là phiên bản nữ của Big Bang; tuy nhiên, "I Don't Care" đã thay đổi nhận thức này thành quan niệm của những người phụ nữ mạnh mẽ và nữ tính.[26] Sau khi phát hành video âm nhạc cho "It Hurts (Slow)", các thành viên đã được chú ý với trang phục màu đen, phong cách gothic,[109] kiểu tóc quái dị và tóc giả.[110] Zack Greenburg từ tạp chí kinh doanh Forbes của Hoa Kỳ đã mô tả 2NE1 là một nhóm nhạc pop đặc trưng bởi những bộ trang phục táo bạo, tươi sáng và to lớn, điệp khúc cuốn hút được nhấn nhá bằng những câu rap và một giọng nói "vênh váo trước mặt". Anh cũng coi nhóm là "lớn hơn Psy", ca sĩ của đĩa đơn ăn khách trên toàn thế giới "Gangnam Style".[111]

Nhóm đã thu hút sự chú ý với phong cách thời trang kỳ lạ, nổi bật và được coi là những người tạo xu hướng và biểu tượng phong cách trong nước.[112] Các thành viên trong nhóm đã sử dụng hình tượng của 2NE1 trong một số quảng cáo và chương trình quảng bá. Năm 2009, nhóm ký hợp đồng làm người mẫu với Fila cho một chiến dịch thương mại mới.[113] Vào đầu tháng 5 năm 2013, trang web "2NE1Loves.com" được tung ra cùng với những video bí ẩn của các thành viên.[114] Dự án sau đó được tiết lộ là 2NE1 Loves Shinsegae, một sự chứng thực cho một cửa hàng bách hóa và thương hiệu Chrome Hearts.[115] Các bài hát của nhóm đã được sử dụng trong nhiều quảng cáo; "Lollipop" cho điện thoại LG Cyon, "Follow Me" cho Corby Folder của Samsung,[18][33] và "Don't Stop the Music" cho Yamaha Fiore. "Go Away" được sử dụng làm bài hát chủ đề cho chương trình truyền hình Mezamashi TV của Nhật Bản.[41][47] Sau hậu quả của trận động đất và sóng thần Tōhoku năm 2011, 2NE1 đã sử dụng hình tượng của nhóm cho chiến dịch "Pray for Japan" của Naver để giúp gây quỹ cho các nạn nhân.[51]

  • To Anyone (2010)
  • Collection (2012)
  • Crush (2014)
  • The Party in Philippines (2011)
  • Nolza (2011)
  • New Evolution Global Tour (2012)
  • All or Nothing World Tour (2014)
  • YG Family Concert (2010)
  • YG Family 15th Anniversary Concert (2011–2012)
  • YG Family World Tour: Power (2014)
Năm Tên Ghi chú
2009 Style Khách mời
Girlfriends
Năm Tên Kênh
2009 2NE1TV Mnet
2010 2NE1TV Season 2
2011 2NE1TV Live: Worldwide Season 3
2014 America's Next Top Model Season 21 CBS
The Bachelor Season 18 ABC
The Tim Yap Show GMA Network

Khi 2NE1 ra mắt, bài hát "Fire" của nhóm và những buổi biểu diễn trực tiếp sau đó đã được gọi là độc đáo và ấn tượng. Nhóm đã giành được nhiều giải thưởng trên các chương trình âm nhạc hàng tuần, chẳng hạn như Inkigayo và Music Bank.[113] "Fire" cũng giành được cho nhóm giải Bài hát của tháng và Tân binh của tháng vào tháng 5 năm 2009.[116] "I Don't Care" đã mang lại cho nhóm thành công và sự công nhận tương tự, đồng thời giúp 2NE1 giành giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009.[117] Cùng năm, nhóm đã giành chiến thắng tại Cyworld Digital Music Awards với giải Nghệ sĩ bán chạy nhất, Nhóm nhạc tân binh xuất sắc nhất, giải Bonsang và Bài hát xuất sắc nhất cho "I Don't Care".[118] Nhóm cũng đã được đề cử tại Golden Disk Awards năm 2009 cho giải thưởng Phổ biến, Tân binh và Bonsang kỹ thuật số.[119] Tại Melon Music Awards, nhóm là nghệ sĩ mới duy nhất chiến thắng trong danh sách 10 nghệ sĩ Hàn Quốc hàng đầu và giải Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất.[120] Nhóm đã giành được giải thưởng cho Sân khấu của năm, Album của năm, Bài hát của năm tại GQ Awards năm 2009.

2NE1 đã giành được giải thưởng Nghệ sĩ của năm và Album của năm đầu tiên cho To Anyone tại Mnet Asian Music Awards năm 2010, đồng thời giành giải Nhóm nhạc nữ xuất sắc nhất và Video âm nhạc xuất sắc nhất cho "Can't Nobody".[121] Nhóm là nghệ sĩ đầu tiên giành được cả 3 giải thưởng Daesang tại Mnet Asian Music Awards.[122]

Vào ngày 29 tháng 11 năm 2011, 2NE1 đã giành được giải Nhóm nhạc có giọng ca xuất sắc nhất cho bài hát "Lonely" và lần thứ hai được trao giải Bài hát của năm cho "I Am the Best" tại Mnet Asian Music Awards năm 2011. Sau buổi lễ, 2NE1 đã được ghi nhận khi giành được nhiều giải thưởng Daesang nhất cho nghệ sĩ nữ trong lịch sử MAMA với 4 lần chiến thắng (2 giải Bài hát của năm, 1 giải Album của năm và 1 giải Nghệ sĩ của năm).[123]

  1. ^ a b Tamar Herman (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. www.billboard.com. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  2. ^ Benjamin, Jeff (ngày 23 tháng 8 năm 2012). “2NE1 Invades America: Behind the Scenes With the K-Pop Phenomenon”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  3. ^ “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard (bằng tiếng Anh).
  4. ^ a b Doo, Rumy (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “Member Gong Minzy to leave 2NE1”. Kpop Herald. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ a b “[공식입장] YG 측 "2NE1, 21일 '굿바이' 음원 발표"” (bằng tiếng Hàn). news.nate.com. ngày 5 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2017.
  6. ^ E&M, By Korea Times, KF and CJ (ngày 14 tháng 7 năm 2012). “2NE1 out to conquer the world”. ABS-CBN News (bằng tiếng Anh).
  7. ^ a b Herman, Tamar (ngày 12 tháng 7 năm 2017). “10 Best K-Pop Girl Groups of the Past Decade: Critic's Picks”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  8. ^ Liu, Marian (ngày 17 tháng 2 năm 2017). “K-pop's growing pains: Why Asia's biggest bands are splitting up”. CNN. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  9. ^ “2018 Winter Olympics in South Korea: A guide to all things K-pop | The Michigan Journal”. ngày 16 tháng 12 năm 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2021.
  10. ^ Dutta, Soma (ngày 15 tháng 10 năm 2015). “16 Best Selling Girl Groups of All Time”. Insider Monkey. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2017.
  11. ^ “The Best Concerts of 2012, as Seen by Times Critics”. The New York Times. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2013. This was the year K-pop arrived — not in the form of "Gangnam Style," which was everywhere and yet completely evanescent — but in these arena shows, which were full of thousands of young, paying fans eager to see the girls of 2NE1 and the boys of BigBang, groups with zero American hits between them, but rabid American followings all the same.
  12. ^ a b Park Kyeong-eun (28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  13. ^ “여자 아이들그룹 '3차 대전' '애프터스쿨'·YG 3인조… '불꽃경쟁'” [Female Idol Groups, Three of Them in War: "After School" – "YG's Trio" ... Flower War]. Dong-A Ilbo (bằng tiếng Hàn). 6 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  14. ^ “여자 빅뱅, '4명은 노출 1명은 베일'…5인조로 4월 데뷔”. My Daily (bằng tiếng Hàn). 21 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  15. ^ “YG "원조 21에게 미안, '여자빅뱅' 이름 2NE1로 교체"” [YG "Sorry to original 21, 'Female Big Bang' name will be replaced with 2NE1"]. Asia Economy (bằng tiếng Hàn). 30 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009 – qua Nate.
  16. ^ “2NE1 Comes Out on Top at Music Bank”. The Korea Times (bằng tiếng Anh). 18 tháng 7 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  17. ^ “피에스타 린지 'YG 연습생 시절 2NE1 후보…내 길 아니였다 생각'” [Fiestar Linzy, "2NE1 candidate when I was a YG trainee… I thought it wasn't my way"]. Sports Donga. 25 tháng 8 năm 2015. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2015 – qua Naver.
  18. ^ a b Park Kyeong-eun (ngày 28 tháng 3 năm 2009). '여자빅뱅' 5월 초 데뷔, 新 여자아이돌 대 격돌 ["Female Big Bang" Debut in May, Female Idol Groups Crash (Together)]. Good Day Sports (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  19. ^ (tiếng Triều Tiên) Lee, Duna. '여자빅뱅' CF통해 모습 공개한다 ("Female Big Bang" First Shown Through Commercial). uKopia. ngày 26 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  20. ^ (tiếng Triều Tiên) Im, I-rang. 빅뱅-2NE1 '롤리팝', CM송 최초 가요프로 1위 될까? (Big Bang-2NE1 "Lollipop", First Commercial Song to Hit #1 on Network Music Shows?). MyDaily. ngày 17 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  21. ^ (tiếng Triều Tiên) 신예 여성그룹 2NE1, 첫 타이틀곡 `파이어` 발표 (New Female Group 2NE1, First Single "Fire" Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ (tiếng Triều Tiên) 양현석 "2NE1 데뷔곡은 레게풍 힙합곡" (Yang Hyeon-seok "2NE1's Debut Song is Reggae/Hip-Hop Song"). SBS News. ngày 30 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  23. ^ (tiếng Triều Tiên) 2NE1, 두 가지 버전의 `파이어` 뮤비 공개 (2NE1, 2 Version of "Fire" Video Released) Lưu trữ 2009-07-18 tại Wayback Machine. Hankyung. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  24. ^ (tiếng Triều Tiên) Park, Sae-yeon. 2NE1, 2009 최고신인 되나? ‘파이어’ M/V 1백만 클릭 ‘대박’ (2NE1, 2009 Best New Group? "Fire" Music Video Receives 1 Million Clicks, "Huge Success") Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 7 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2009.
  25. ^ (tiếng Triều Tiên) Kim, Heejung. 2NE1, 가요계에 돌풍 일으키나? (2NE1, a K-Pop Blast?) Lưu trữ 2009-08-05 tại Wayback Machine. Korea Economic Daily. ngày 1 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2009.
  26. ^ a b c (tiếng Triều Tiên) Kim, Hyeong-wu. 2NE1 아이돈케어 ‘힙합전사에서 귀여운 여인 깜짝 변신’ (2NE1's "I Don't Care" "Swift Change from Hip-Hop Warriors to Sweet Girls"). IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  27. ^ 2NE1 Comes Out on Top at Music Bank. The Korea Times. ngày 18 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  28. ^ "2009 Mnet Asian Music Awards". Awards and Winners. Truy cập 2014-12-14.
  29. ^ "2009 M.net Korean Music Festival Winners list" Lưu trữ 2013-01-27 tại Wayback Machine. MAMA. Truy cập 2014-12-14.
  30. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Hong, Jeong-won. 2NE1 ‘아이돈케어’ 레게믹스 반응 ‘핫’..3일 음원공개 (2NE1's "I Don't Care" Reggae Remix Received Hotly, To Be Released Digitally on the 3rd) Lưu trữ 2009-09-13 tại Wayback Machine. Joins.com/Newsen. ngày 1 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  31. ^ “Comeback D-2, 2NE1's upcoming album hits monster pre-order numbers”. Allkpop.com. ngày 6 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2011.
  32. ^ Han, Sang-hee. 6th Asia Song Festival To Take Place Next Month Lưu trữ 2009-09-17 tại Wayback Machine. The Korea Times. ngày 11 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  33. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Park, Se-yeon. 2NE1 오늘(9일) 게릴라 신곡 깜짝공개 ‘날 따라 해봐요’ (2NE1 Releases "Guerilla" Surprise Single "Please Follow Me" Today (the 9th)) Lưu trữ 2020-06-10 tại Wayback Machine. JoongAng Ilbo/Newsen. ngày 9 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2010.
  34. ^ “Try to Follow Me” (bằng tiếng Hàn).
  35. ^ “Oriental whirl: American debut for 2NE1”. New Straits Times. ngày 19 tháng 9 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  36. ^ Herman, Tamar (ngày 26 tháng 11 năm 2016). “2NE1 Officially Disbands, YG Entertainment Renews Contracts With CL and Dara”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  37. ^ “[NEWS] 2NE1's "To Anyone" Album Pre-order Tops Hanteo Real-time Album Sales Chart!”. Daily K Pop News (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  38. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Clap Your Hands" and "It Hurts (Slow)"” (bằng tiếng Hàn).
    • “Go Away" and "Can't Nobody” (bằng tiếng Hàn).
  39. ^ Park, Mi Yae (ngày 23 tháng 10 năm 2010). “양현석 "2NE1 후속곡..할로윈 공개" 호기심” [Yang Hyun Suk: "2NE1 follow up song on Halloween," sparks public curiosity]. SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  40. ^ “2NE1 후속곡 아파” [2NE1 Follow Up Song It Hurts]. YG Life (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 30 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2010.[liên kết hỏng]
  41. ^ a b “สี่สาวเปรี้ยวซ่า 2NE1 เตรียมส่งซิงเกิลพิเศษ "Don't Stop The Music" เพื่อแฟนไทยโดยเฉพาะพร้อมฟังก่อนใครในโลก!! 26 พฤศจิกายนนี้ ทุกคลื่นวิทยุทั่วประเทศ. กระแสตอบรับดี โอกาสเจอ 2NE1 ยิ่งมาก!!” [2NE1 releasing "Don't Stop the Music" as a special project for Thai fans, releasing November 26, good opportunity to meet 2NE1!]. Pingbook Entertainment (bằng tiếng Thái). Pingbook Network. ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2010.
  42. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA Artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  43. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 10 năm 2010). “Controversial Mnet Asian Music Awards bares nominees”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2011.
  44. ^ “MAMA "보아-女가수상, 씨엔블루-男신인상 등 추후 전달"”. tvdaily.mk.co.kr (bằng tiếng Hàn). ngày 29 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2015.
  45. ^ “CAN'T NOBODY (English Version) レコチョクにて独占先行配信開始!” ["Can't Nobody (English Version)" exclusive ringtone release on Recochoku!]. 2NE1 Avex Official Website (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  46. ^ "最後の大物"2NE1、今春日本デビュー [2NE1 to debut in Japan this Spring]. Sanspo.com (bằng tiếng Nhật). Sankei Digital Inc. ngày 23 tháng 2 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2011.
  47. ^ a b “「GO AWAY」、フジテレビ系「めざにゅ〜」テーマソングに決定!” ["Go Away" selected to be Mezamashi TV's theme song!]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 31 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  48. ^ Gil, Hye-seong (ngày 16 tháng 3 năm 2011). “양현석 "2NE1, 日안정되면 언제든 활동OK..韓활동먼저"” [Yang Hyun Suk: "2NE1, waiting until Japanese situation is stable"]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  49. ^ アルバム 週間ランキング [Album Weekly Ranking]. Oricon Style (bằng tiếng Nhật). Oricon Inc. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  50. ^ “テレビ朝日「MUSIC STATION」オンエア中止のお知らせ” [TV Asahi's Music Station appearance cancelled]. Avex Official Website – 2NE1 (bằng tiếng Nhật). Avex Group. ngày 11 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  51. ^ a b “스타들의 "Pray for Japan" 릴레이가 시작되었습니다!” [Star's "Pray for Japan" relay has started!]. Naver (bằng tiếng Hàn). NHN Corp. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  52. ^ “2011 MAMA Winners”. Mnet Asian Music Awards. CJ E&M. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
  53. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Lonely” (bằng tiếng Hàn).
    • “I Am the Best” (bằng tiếng Hàn).
    • “Hate You” (bằng tiếng Hàn).
    • “Ugly” (bằng tiếng Hàn).
  54. ^ “[인티포털] 가온 차트 역대 음반판매량 TOP100 (2010~2014)”. 인스티즈(instiz, 音思提资). ngày 13 tháng 4 năm 2018.
  55. ^ “SPIN's 20 Best Pop Albums of 2011”. Spin Magazine. ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  56. ^ a b “オリコンランキング情報サービス「you大樹」” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2014.
  57. ^ “You chose the best, and now it's your time to celebrate”.
  58. ^ “World, Get Ready For 2NE1: MTV Iggy's Best New Band In The World!”.
  59. ^ “53rd Japan Record Award winners”. Tokyograph. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  60. ^ “AKB48 wins 53rd Japan Record Award”. Tokyograph. ngày 30 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  61. ^ a b 2ne1のアルバム売り上げランキング (bằng tiếng Nhật). Oricon. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  62. ^ “Big Bang and 2NE1 added to Springroove lineup”. Asia Pacific Arts. ngày 31 tháng 1 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2012.
  63. ^ “作品コード 704-3406-9 SHE'S SO(OUTTA CONTROL)” [M-Flo "She's So(Outta Control)" tie-up information]. JASRAC. 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  64. ^ “Japan Billboard Hot 100”. Billboard Japan. ngày 21 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2012.
  65. ^ Herald, The Korea (ngày 24 tháng 6 năm 2012). “2PM, 2NE1, Girls' Generation win at Japan MTV awards”. www.koreaherald.com (bằng tiếng Anh).
  66. ^ (tiếng Triều Tiên) [단독]2NE1, 1년만 전격컴백..6월 韓새앨범·7월 콘서트:: 네이버 뉴스. News.naver.com. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2012.
  67. ^ “Best Band Style Of 2012”. MTV. ngày 7 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2013.
  68. ^ “Will.i.am & 2NE1's 'Take The World On' English Collab Revealed”. Billboard. ngày 14 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  69. ^ “will.i.am and 2NE1 Take the World On with Intel Ultrabook Project”. Mwave. ngày 19 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  70. ^ Yi, David (ngày 21 tháng 3 năm 2013). “Meet Jeremy Scott's Muse: K-Pop Star CL”. Elle. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  71. ^ Benjamin, Jeff (ngày 16 tháng 4 năm 2013). “Will.i.am and 2NE1 'Gettin' Dumb': Listen to the K-Pop Collaboration”. Billboard. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2013.
  72. ^ Gaon chart single rankings:
    • “Falling in Love” (bằng tiếng Hàn).
    • “Do You Love Me” (bằng tiếng Hàn).
    • “Missing You” (bằng tiếng Hàn).
  73. ^ “An Interview with K-Pop Favorites 2NE1 and Their New Videos for "Happy" and "Come Back Home"”. www.vice.com (bằng tiếng Anh).
  74. ^ “2NE1 to Appear on the Final Episode of "America's Next Top Model"”. Yg Life. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  75. ^ Benjamin, Jeff (ngày 26 tháng 3 năm 2014). “'America's Next Top Model' Nabs K-Pop Groups 2NE1 and BTOB for Upcoming Season”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2014.
  76. ^ “NEWS ABOUT '2NE1'”. YG-Life. ngày 13 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2014.
  77. ^ “NEWS ABOUT '2NE1' : PART 2”. YG Life. YG Entertainment. ngày 19 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  78. ^ “Come Back Home" and "Gotta Be You” (bằng tiếng Hàn). Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2015.
  79. ^ “2NE1 Sets New U.S. Record for Highest-Charting, Best-Selling K-Pop Album With 'Crush'”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  80. ^ “2NE1 – 2014 WORLD TOUR”. YG Life. ngày 26 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  81. ^ “DARA on '2NE1's World Tour Preparation' #1] A very serious videoconference”. YG Life. YG Entertainment. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  82. ^ “2nd World Tour Title: 2NE1 AON (ALL OR NOTHING)”. YG Life. ngày 15 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 2 năm 2014.
  83. ^ “MTV IGGY”. ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  84. ^ “40 Best Albums of 2014”. Fuse. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  85. ^ Benjamin, Jeff; Oak, Jessica (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “The 10 Best K-Pop Albums of 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  86. ^ “World Albums Artists - Year-End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  87. ^ Benjamin, Jeff (ngày 22 tháng 12 năm 2014). “2NE1's 'Crush' Is First K-Pop Entry on Year-End World Albums Chart”. Billboard. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2017.
  88. ^ Yg United (ngày 5 tháng 10 năm 2015). “2NE1's Minzy Successfully Opens Her 'Millennium Dance Academy'”. YG UNITED. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  89. ^ “[2015 MAMA] 2NE1 Performs as a Group for the First Time in Two Years”.
  90. ^ Nunez, Jatnna. “Beyoncé, 2NE1, Madonna & More: Amazing Performance of 2015”. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  91. ^ “Tumblr 2015: Year In Review”. Tumblr. Tumblr. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2015.
  92. ^ Yi, Yoonjung. “Chinese Elect the Top 10 Most Anticipated K-Stars of 2016”. International BNT News. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ Yoon Seong-yeol (ngày 5 tháng 4 năm 2016). “YG "2NE1 공민지 탈퇴..팀 3인조 체재 여름 신곡"(전문)”. Star News (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  94. ^ '2NE1'에 대한 공식 입장”. YG Entertainment. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  95. ^ “YG "2NE1, 7년만 공식 해체…박봄 재계약 NO"(공식입장 전문)”. Naver (bằng tiếng Hàn). ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  96. ^ “2NE1 '안녕', 공민지 생각하면서 썼다…'고별송' 뒷이야기” (bằng tiếng Hàn). YG Entertainment. ngày 21 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2017.
  97. ^ “World Digital Song Sales - ngày 11 tháng 2 năm 2017”. Billboard Chart. ngày 31 tháng 1 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2017.
  98. ^ “안녕 (Goodbye)”.
  99. ^ Moon, Wan-sik (ngày 1 tháng 7 năm 2009). “2NE1 첫 미니 타이틀 'I don't care' 1일 전격 공개” [2NE1 first mini-album titled I Don't Care, takes public by storm]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  100. ^ Park, Yeong-ung (ngày 10 tháng 9 năm 2010). “'컴백' 2NE1, 댄스 타이틀곡 '고 어웨이' 뮤비 공개” [2NE1 comeback, dance title track "Go Away" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  101. ^ Mun, Wan-sik (ngày 31 tháng 10 năm 2010). “'인기가요' 2NE1, 후속곡 '아파' 첫선 '4人4色'” [2NE1 on Inkigayo, "It Hurts" song debut: 4 people, 4 colors]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  102. ^ Park, Yeong-ung (ngày 3 tháng 10 năm 2010). “2NE1, 25일만에 1위 8번..'가요계평정' 의미는?” [2NE1, 25 days after being number one eight times, what's this mean for the music industry?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  103. ^ Garibaldi, Christina (17 tháng 10 năm 2012). “2NE1 Bringing K-Pop 'Girl Power' Stateside With will.i.am-Assisted Debut”. MTV. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2013.
  104. ^ Sablan, Niño Mark (24 tháng 7 năm 2009). “Crazy for K-Pop”. Philippine Daily Inquirer. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2010.
  105. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). 박봄, "가수 꿈 위해 유학도 포기했어요~" [Park Bom, "For my singing dream, I stopped my overseas studying~"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2009. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2010.
  106. ^ a b Park Yeong-ung (13 tháng 10 năm 2010). “"박봄은 비욘세?"..2NE1이 밝힌 롤모델은?” ["Park Bom and Beyoncé?" Who are 2NE1's role models?]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  107. ^ Park, Mi-ae (ngày 22 tháng 5 năm 2009). “CL, "데모 테이프 들고 무작정 YG 문 노크"” [CL, "knocked on the YG Entertainment door to hand in my demo tape"]. eDaily SPN (bằng tiếng Hàn). eDaily. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2010.[liên kết hỏng]
  108. ^ “Rating the Latest Idol Group Comebacks”. KBS Global. KBS. ngày 15 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2010.
  109. ^ Park, Yeong-ung (1 tháng 11 năm 2010). “산다라박의 눈물..2NE1 '아파' 뮤비 공개” [Sandara Park's tears; 2NE1's "It Hurts" music video released]. Star News (bằng tiếng Hàn). MoneyToday. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  110. ^ Song, Yeong-won (ngày 13 tháng 11 năm 2010). “★처럼 이미지 변신하고 싶다면? '패션가발'을 활용해라!” [Do you want to have an image transformation? Use a wig!]. Nate News (bằng tiếng Hàn). SK Communications. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2010.
  111. ^ Greenburg, Zack (16 tháng 10 năm 2012). “Bigger Than Psy: 2NE1 And The Future Of K-Pop”. Forbes. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2013. Known by many as the Korean version of the Spice Girls, the group has sold 27 million digital downloads to date, including the single "I Am The Best," which moved 4.5 million units
  112. ^ Kim, Ruth (2 tháng 8 năm 2017). “The Best Beauty Looks of 2NE1 & How You Can Recreate Them”. Beautytap.
  113. ^ a b (tiếng Triều Tiên) Lee, Na-Young. 2NE1, 이번에는 광고계 접수한다! '억대모델 발탁' (2NE1, This time they're taking over the advertising industry) Lưu trữ tháng 3 4, 2016 tại Wayback Machine. Today Korea. June 16, 2009. Truy cập June 16, 2009.
  114. ^ Benjamin, Jeff (8 tháng 5 năm 2013). “YG Entertainment Teases 'Who's Next?' as Mysterious '2NE1 Loves' Videos Surface”. billboard.
  115. ^ “2NE1, 하이주얼리 브랜드 '크롬하츠'와 콜라보레이션” (bằng tiếng Hàn). YG Family. 20 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2013.
  116. ^ Lee, Hye-rin (10 tháng 6 năm 2009). “2NE1, 디지털 뮤직어워드 3관왕 기염①” [2NE1, 3-time digital music award winners]. Asiae (bằng tiếng Hàn). Asiae. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2009.
  117. ^ “2009 Mnet Asian Music Awards”. Mnet Asian Music Awards (bằng tiếng Hàn). Mnet Media. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2010.
  118. ^ Hicap, Jonathan M. (2 tháng 3 năm 2010). “2NE1 wins big at Cyworld Digital Music Awards”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ 6 Tháng Ba năm 2010. Truy cập 24 Tháng tư năm 2010.
  119. ^ “2009 Golden Disk Award nominees revealed”. AllKpop. 2 tháng 11 năm 2009.
  120. ^ “2009 Melon Music Awards”. Melon (bằng tiếng Hàn). Loen Entertainment. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2010.
  121. ^ Hicap, Jonathan M. (ngày 29 tháng 11 năm 2010). “2NE1 wins MAMA artist, Album of the Year”. Manila Bulletin. Manila Bulletin Publishing. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2010.
  122. ^ “2NE1 Wins Major Awards at the 2010 Mnet Asian Music Awards!”. myx.abs-cbn.com (bằng tiếng Anh). 2 tháng 12 năm 2010.
  123. ^ “K-Pop's Hottest Girl Group Has Officially Broken Up”. NextShark. ngày 29 tháng 11 năm 2016.

Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=2NE1&oldid=68064465”